ÔN LẠI VÀI NÉT VỀ SỰ THẬT LỊCH SỬ ĐỂ TƯỞNG NIỆM
ĐẠI TƯỚNG VÕ NGUYÊN GIÁP
Trần
Chung Ngọc
LTS: Có những lãnh
tụ chết đi, nhân dân cũng làm ngơ, xem như đó là lẽ
thường tạo hóa. Không kể những trường hợp bị bắt
buộc "khóc dối," trường hợp các vua chúa ngày xưa là
điển hình cho sự "làm ngơ." của dân chúng. Có những
lãnh tụ chết đi, nhân dân lại hớn hở ăn mừng, hân
hoan, như trường hợp cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm.
Nhân dân hớn hở hoan hô quân đội sau khi TT Ngô Đình Diệm bị giết.
"Thương dân, dân lập bàn thờ, Hại dân, dân đái xuống mồ thấu xương."
Chỉ có những lãnh
tụ thực sự thương dân thì khi chết, nhân dân mới
tiếc thương, đau buồn. Nhưng trường hợp của lãnh tụ
Hồ Chí Minh và Đại tướng Võ Nguyên Giáp, sự thương
tiếc của nhân dân đã lên rất cao, ngút ngàn, không
kể xiết.
|
|
Cả ngàn người sắp hàng trước của nhà đại tướng Võ Nguyên Giáp để được viếng thăm
sau khi nghe tin Đại tướng mất. Ảnh báo Tuổi Trẻ
http://tuoitre.vn/Chinh-tri-Xa-hoi/572960/
Xen lẫn trong sự
thương tiếc, cảm xúc của dân chúng được tăng thêm
gâp bội do niềm hãnh diện vì cả thế giới gồm cả
những nước cựu thù, đều bày tỏ sự cảm mến, nghiêng
mình thán phục, và không tiếc lời ca ngợi sau khi
nghe tin vị "Đại tướng huyền thoại của nhân dân Việt
Nam" từ giã cõi đời.
Chúng tôi sẽ không
quên những xúc cảm này để chống lại những kẻ xuyên
tạc những hào quang chính đáng trong lịch sử của
người dân Việt. Chắc chắn là khi thời sự hôm nay
nguôi dần, bắt đầu sẽ có các bài viết của những kẻ
phản quốc, gièm pha này nọ, mà những lý luận của họ
chỉ có lợi cho thế lực ngoại thù mà thôi. Bài sau
đây của GS Trần Chung Ngọc trả lời cho một số dư
luận ngược chiều đó.
(SH)
Vài Lời Nói Đầu
Tin
Đại Tướng Võ Nguyên Giáp về với Ông Bà Tổ Tiên đã
loan truyền trên khắp thế giới. Báo chí thế giới và
các đài truyền hình chính Âu Mỹ đều loan tin và hầu
như tất cả đều nhắc đến sự nghiệp của một danh tướng
của Việt Nam, tranh đấu cho nền độc lập của dân tộc
và đất nước. Và tất nhiên, báo chí và các đài truyền
hình đều nhắc đến chiến thắng Điện Biên Phủ. Tên
tuổi của Đại Tướng Võ Nguyên Giáp không những chỉ
vang dội trong lòng tuyệt đại đa số người dân Việt
Nam mà còn vang dội trên khắp thế giới. Khoan kể đến
các quốc gia trong thế giới thứ ba, những nước đã
từng bị thực dân Âu Mỹ xâm chiếm và áp bức, ngay cả
những kẻ thù của Việt Nam trước đây như Pháp, Mỹ
cũng lên tiếng ca ngợi Đại Tướng Võ Nguyên Giáp là
một thiên tài quân sự.
Đại tướng Võ Nguyên Giáo và Bộ
Trưởng Bộ Quốc Phòng Hoa Kỳ Robert McNamara tại nhà
khách Chính phủ, Hà Nội 23/6/1997 - hoạt động cuối
cùng của Hội thảo Việt – Mỹ.
Ảnh http://www.baodatviet.vn/
Ảnh http://www.baodatviet.vn/
Ở đây tôi không thể và
không có ý định viết về Đại Tướng Võ Nguyên Giáp.
Nếu quý vị vào Internet, chỉ cần đánh chữ “Võ Nguyên
Giáp” vào chỗ search thì sẽ thấy hơn 2 triệu rưỡi
thông tin tiếng Việt về Tướng Giáp. Hoặc đánh vài
chữ “Vo Nguyen Giap” vào chỗ search thì sẽ thấy hơn
17 triệu rưỡi thông tin gồm nhiều ngoại ngữ như
tiếng Anh, hoặc Pháp từ nhiều nguồn báo chí bằng mẫu
tự Latin ở khắp nơi trên thế giới. Chắc chắn nếu bạn
đọc biết ngôn ngữ khác có lẽ cũng tìm được rất nhiều
nguồn thông tin về Võ Đại Tướng.
Trong bài này, tôi xin
ôn lại vài nét về lịch sử xung quanh trận Điện Biên
Phủ và 2 cuộc chiến ở Việt Nam, gọi là bài để tưởng
niệm Đại Tướng Võ Nguyên Giáp của một người Việt
quốc gia. Quốc gia đây nên hiểu là một đất nước Việt
Nam độc lập và thống nhất. “Thất thập cổ lai hy”,
tuy ngày nay tuổi thọ của con người có gia tăng,
nhưng không phải ai, kể cả các vua chúa, giáo hoàng
v…v…, cũng có thể sống đến 103 tuổi. Đây là sự hiếm
hoi nhờ hồng phúc tổ tiên và sự biết ơn của đất
nước.
Tôi phải có vài lời
khen ngợi sachhiem.net đã mau mắn thu thập được 102
tràng hoa rất đẹp trong bài Vô Cùng Thương Tiếc
Đại Tướng VÕ NGUYÊN GIÁP để “Kính
dâng Người 102 tràng hoa thương nhớ Người anh hùng
đuổi giặc oanh liệt, lừng danh năm châu bốn bể, rạng
rỡ giống nòi, và thế giới nghiêng mình nể phục.”
sachhiem.net cũng đưa lên kèm một clip video của đài
CNN nói về Tướng Giáp. Nghe nói có một tên trí thức
Ca-tô lưu manh là Hồng Lĩnh, quen nghề của Đạo
Chích, đã ăn cắp hết tất cả các tràng hoa
trên sachhiem.net, cùng một số những hình ảnh
người dân tưởng niệm, thương tiếc Đại Tướng Võ
Nguyên Giáp của các trang thông tin ở Việt Nam, sửa
lại những lời ghi chú, đăng lên để tưởng niệm xác
chết của cố TT Ngô Đình Diệm nằm trong xe thiết
giáp. Đó là đạo đức của một trí thức Ca-tô, phản ánh
nền giáo dục đặc thù Ca-tô và gia đình của ông ta.
Có lẽ chúng ta không
cần để ý đến vài ý kiến của một số người CCCĐ hay
CCCC, muốn hạ uy tín của Tướng Giáp, cho rằng không
phải Đại Tướng Võ Nguyên Giáp chỉ huy đánh trận Điện
Biên Phủ, hoặc Bắc Việt xâm lăng miền Nam, hoặc dùng
những lời lẽ hạ cấp đặc thù Ca-tô để viết bậy, viết
nhảm về Tướng Giáp… Đây chỉ là những ý kiến hoàn
toàn vô giá trị, vì chúng không dựa trên sự thật,
nằm trong sách lược xuyên tạc lịch sử để chống Cộng
bất kể liêm sỉ. Mà lạ thay, những luận điệu này lại
có cả mấy ông mang danh là sử gia của VNCH đưa lên.
Họ muốn viết gì cũng được, muốn xuyên tạc lịch sử
thế nào, muốn dùng những từ hạ cấp thế nào cũng
được, nhưng những luận điệu ấu trĩ và hạ cấp của họ
chỉ có thể rao truyền trong những đám người Việt
chống Cộng nhỏ nhoi ở hải ngoại, hay những tên lưu
manh như Ts Hồng Lĩnh, người ngoài chẳng có ai buồn
để ý. Và lẽ dĩ nhiên chúng không thể làm phai mờ
hình ảnh Đại Tướng Võ Nguyên Giáp trong lòng người
dân Việt với lòng tri ân một vĩ nhân của Việt Nam.
Hình ảnh người dân tự phát đông đảo, tưởng niệm,
thương nhớ Tướng Giáp ở trong nước đã là những bằng
chứng nói lên sự vô giá trị về vài luận điệu tiêu
cực về tướng Giáp ở hải ngoại. Đối với quan niệm thế
giới về Tướng Giáp hay về hai cuộc chiến ở Việt Nam
thì có tính chất xác thực bất khả phủ bác. Và sau
đây là vài nét lịch sử như chúng đúng là như vậy.
Thế Giới Nhận Định
Về Trận Điện Biên Phủ.
Điều chính về sự
nghiệp cứu nước của Tướng Giáp là những chiến dịch
của ông ta đã đuổi Pháp và Mỹ ra khỏi Việt Nam
(Một câu ngắn trong Bản Tin trên New York Time, 5
October, 2013, viết: Vo Nguyen Giap, the relentless
and charismatic North Vietnamese general whose
campaigns drove both France and the United States
out of Vietnam, died on Friday in Hanoi). Đối với
người Việt Nam, chừng đó tưởng cũng đã đủ để chúng
ta có một nhận định và đánh giá đúng về Tướng Giáp.
Thế giới đã so sánh Tướng Giáp với Alexander Đại Đế,
tướng McArthur của Mỹ, và Rommel của Đức, và vượt
trội trên Napoleon. Nhưng riêng ý tôi, tôi cho rằng
không thể so sánh như vậy được, sự nghiệp và “công
thành” của Tướng Giáp vượt trội trên hết.
Ảnh đầu tiên trong tập hợp 15 ảnh về Đại tướng của
báo Washington Post
Tôi không đọc nhiều về
Đại đế Alexander, nhưng có đọc về McArthur và
Rommel. Trong kỳ Đệ Nhị Thế Chiến, trước sự tấn công
của quân Nhật, McArthur đã từng phải bỏ Phillipines,
chạy về Úc trong hai năm rồi mới trở lại
Phillipines. Trong cuộc chiến tranh Triều Tiên,
McArthur đã bị cất chức bởi Tổng thống Harry Truman
năm 1951... Rommel, tướng chỉ huy Sư Đoàn 7 thiết
giáp của phát xít Đức, cuối cùng cũng bị Hitler ép
uống viên cyanide tự sát. Những vị này có quyền lực,
đã có sẵn một đoàn quân đông đảo, đã có vũ khí đầy
đủ trong tay, đã có đầy đủ phương tiện, nên có thể
có những trận thắng cục bộ, giới hạn. Nhưng về tướng
Giáp và hoàn cảnh Việt Nam thì khác hẳn. Một số tài
liệu điển hình sau đây sẽ cho chúng ta thấy rõ vấn
đề.
Đại Tướng Võ Nguyên Giáp đi
duyệt binh các đơn vị trong Lễ diễu binh 10-10-1954
mừng ngày giải phóng Thủ đô Hà Nội.
mừng ngày giải phóng Thủ đô Hà Nội.
Tuyệt đại đa số người
dân Việt Nam không ai có thể phủ nhận được những
đóng góp to lớn của CSVN cho đất nước mà Đại Tướng
Võ Nguyên Giáp đã đóng vai trò quyết định trong đó.
Đánh giá chiến thắng Điện Biên Phủ của Việt Nam,
tuyệt đại đa số các nhà phê bình quân sự, trong đó
có cả những tướng lãnh Mỹ, Pháp, đều ca tụng thiên
tài quân sự của Đại Tướng Võ Nguyên Giáp trong những
kế hoạch chuyển quân, vận chuyển các vũ khí nặng,
lợi dụng các cao điểm xung quanh thung lũng Điện
Biên Phủ, từ bỏ chiến thuật biển người của Trung
Cộng, theo đuổi một chiến thuật đánh chậm, đánh chắc
làm hao mòn lực lượng địch v..v… để đi đến một trong
những chiến thắng lẫy lừng nhất trong lịch sử quân
sử thế giới.
Trước hết chúng ta hãy
đọc David G. Marr viết trong Phần Dẫn Nhập của cuốn
“Vietnamese Tradition On Trial 1920-1945”,
trang 1. David G. Marr là Giáo sư nghiên cứu về Thái
Bình Dương ở Đại Học Quốc Gia Úc:
Năm 1938, ít nhất
là 18 triệu người Việt nằm trong vòng kiềm tỏa của
chỉ có 27000 binh lính thực dân. Tuy vậy mà chỉ 16
năm sau, lực lượng thực dân tới 450,000 quân mà
không thể tránh khỏi cuộc thảm bại về chiến thuật ở
Điện Biên Phủ và bắt buộc phải di tản chiến lược
xuống miền Nam vĩ tuyến 17. Sau cùng, trong những
năm 1965-1975, nhiều tổ hợp của Mỹ, Việt Nam Cộng
Hòa, Nam Hàn, và các lực lượng quân sự đồng minh
khác, tổng số lên tới 1.2 triệu người cũng bị thảm
bại, và cuối cùng cũng bị đánh bại bởi Mặt Trận Giải
Phóng Miền Nam và Quân Đội Nhân Dân Việt Nam.
(In 1938 at least
eighteen million Vietnamese were being kept in check
by a mere 27,000 colonial troops. Yet a scant
sixteen years later, colonial forces totalling
450,000 were unable to avoid tactical disaster at
Dien Bien Phu and compulsory strategic evacuation
south of the seventeenth parallel. Finally, in the
years 1965-1975, various combinations of American,
Republic of Vietnam, South Korean, and other allied
armed forces totalling up to 1.2 million men were
outfoxed, stalemated, and eventually vanquished by
the National Liberation Front and the People’s Army
of Vietnam.)
Nếu chúng ta lại biết
rằng, ngày 22-12-1944, ông Võ Nguyên Giáp mới bắt
đầu thành lập một Trung đội 34 người, và khi ông Hồ
kêu gọi toàn quốc kháng chiến thì lực lượng vũ trang
nhân dân yếu kém như thế nào. Nhưng từ lực lượng yếu
kém này ông Võ Nguyên Giáp đã phát triển thành Quân
Đội Nhân Dân Việt Nam trong vòng chưa đầy 10 năm để
đưa đến thành tích chiến thắng ở Điện Biên Phủ, và
sau đó với thành tích chiến thắng một đối phương có
ưu thế tuyệt đối về quân sự và kinh tế, để đi đến
thống nhất đất nước, thì đó có phải là điều đáng để
cho chúng ta suy nghĩ và nhìn “công thành” của Tướng
Giáp ngoài cái lăng kính nhỏ hẹp của hội chứng Quốc
– Cộng không? Lẽ dĩ nhiên những chiến thắng trên là
của toàn dân, nhưng thử hỏi, nếu không có sự lãnh
đạo của Việt Minh thì làm sao tự thân nhân dân có
thể đạt được những thành tích như vậy. Nhưng Việt
Minh gồm những ai?
Jean Lacouture viết
câu sau đây trong cuốn Vietnam: Between Two
Truces, trang 9, có thể giải đáp phần nào cho
câu hỏi trên:
Nước Việt Nam mới
(do Pháp dựng lên với Bảo Đại làm “Quốc trưởng”)
được hơn 30 quốc gia công nhận, và cái quốc gia “ma”
đó đã được cung cấp cho mọi thuộc tính hợp pháp…Tuy
trên lý thuyết (của Pháp), Việt Minh bị gọi
là “quân phiến loạn”, Việt Minh khi đó gồm đa số
những người dân yêu nước và trong mắt của quần
chúng, Việt Minh tiêu biểu cho tinh thần chống mọi
ảnh hưởng, hay đúng hơn mọi chủ nghĩa đế quốc, từ
bên ngoài."
[The new Vietnam was
recognized by more than 30 nations, and that
“phantom” state was supplied with all the attributes
of legality…Though theoretically “rebel”, the Viet
Minh then comprised a majority of patriots and in
the eyes of the people – represented the spirit of
resistance against all influence, or rather all
imperialism, from abroad.]
Những người Việt Nam ở
hải ngoại nhắm mắt chống Cộng khi không còn Cộng
không biết rằng chủ thuyết CS chỉ được sử dụng trong
mục đích giành lại độc lập và thống nhất cho nước
nhà, sau đó CSVN đã thay đổi, biến chất từ lâu.
Trong một cuộc phỏng vấn trước đây, Đại Tướng Võ
Nguyên Giáp đã nói:
“Trong quá khứ,
thách đố lớn nhất của chúng tôi là sự ngoại xâm đất
nước của chúng tôi. Nay Việt Nam đã độc lập và thống
nhất, chúng tôi có thể lo đến sự thách đố to lớn
nhất. Thách đố đó là sự nghèo khó và kinh tế lạc
hậu.”
“In the past, our
greatest challenge was the invasion of our nation by
foreigners,” he told an interviewer. “Now that
Vietnam is independent and united, we can address
our biggest challenge. That challenge is poverty and
economic backwardness.”
Chúng ta nên nhớ là từ
ngày Pháp lập được nền đô hộ ở Việt Nam do sự tiếp
tay và công lớn của người Ca-tô Việt Nam, đã có
nhiều nhà ái quốc và tổ chức chính trị nổi lên để
chống Pháp. Nhưng chỉ có Việt Minh là thành công.
Những người chống Cộng đã đưa ra nhiều lý do nhưng
chẳng có lý do nào có giá trị lịch sử, tất cả chỉ là
những cảm tính cá nhân và cuồng tín tôn giáo. Tại
sao chúng ta không thể đặt lên cán cân những sai lầm
đáng tiếc của CS trong khi thi hành một số chính
sách căn bản không sai lầm, đối lại với những gì CS
đã cống hiến cho đất nước Việt Nam? Có một số người
khùng đến độ gọi Cộng Sản Việt Nam là “Việt Gian” và
gọi những người ở hải ngoại mà họ cho là “thân Cộng”
chỉ vì không hợp ý họ cũng là Việt gian. Cộng sản
hay không, một lực lượng đã thành công đánh đuổi
được thực dân, cũ cũng như mới, mang lại độc lập và
thống nhất cho đất nước mà là “Việt Gian”, vậy thì
tổ chức tôn giáo của những người Việt hoàn toàn lệ
thuộc ngoại bang, đi làm tay sai cho thực dân Pháp
để đưa nước nhà vào vòng nô lệ thì gọi là gì ? Là
những người “yêu nước” hay sao? Điều đáng nói là
trên một số diễn đàn truyền thông chống Cộng ở hải
ngoại không thiếu gì những người khùng như vậy, và
những người này phần lớn lại nằm trong một “Tổ Chức
Tội Phạm Quốc tế”, và đối với người dân Việt Nam thì
chính danh là một tập đoàn Việt gian như lịch sử đã
ghi.
Viết về Đại Tướng Võ
Nguyên Giáp thì không thể bỏ qua được chiến thắng
Điện Biên Phủ. Vậy thì chúng ta hãy xem thế giới
nhận định về chiến thắng này ra sao.
Cuộc chiến thắng
Pháp [ở
Điện Biên Phủ]
của Giáp đã nghiền nát truyền thuyết về “Tây phương
bất bại” và do đó đã mở ra một kỷ nguyên mới cho sự
tranh đấu chống chủ nghĩa thực dân cho nền độc lập
quốc gia. Với chiến thắng này, tên của Võ Nguyên
Giáp đã đồng nhất với sự thất bại của chủ nghĩa thực
dân trong toàn cõi Phi Châu và Nam Mỹ.
[Giap's victory over
the French crushed the legend of Western
invincibility and thus opened a new era in the
struggles for national independence against
colonialism. With this victory, the name of Vo
Nguyen Giap has become identified throughout Africa
and Latin America with the defeat of colonialism.]
Và một tài liệu khác:
By Kay Johnson
Đánh bại Pháp ở
Điện Biên Phủ, Đại Tướng Giáp đã báo trước sự tận
cùng của chủ nghĩa đế quốc.
Cuộc chiến thắng
của Việt Minh ở Điện Biên Phủ là cuộc chiến thắng
đầu tiên của một nhóm kháng chiến Á Châu chống lại
một đoàn quân thuôc địa trong một cuộc chiến quy
ước. Cuộc chiến thắng này đã đánh đổ huyền thoại về
“ Tây Phương bất bại”, đưa đến sự rút ra khỏi Việt
Nam một cách nhục nhã của Pháp, và gây cảm hứng
chống những thế lực đế quốc trên khắp thế giới.
[In defeating the
French at Dien Bien Phu, General Vo Nguyen Giap
heralded the end of imperialism.
The communist Viet
Minh's victory at Dien Bien Phu was the first by an
Asian resistance group against a colonial army in a
conventional fight. It struck down the myth of
Western invincibility, led to the ignominious
withdrawal of the French from Vietnam, and inspired
anti-imperial forces worldwide.]
Tưởng chúng ta cũng
nên đọc thêm nhận định của Giáo sư Mortimer T. Cohen
về chiến thắng Điện Biên Phủ:
“Điện Biên Phủ là
sự diễn đạt tinh thần quốc gia và sự hãnh diện của
người Việt về một biến cố có nhiều ảnh hưởng nhất
trong dòng lịch sử của họ. Có một đứa trẻ nào ở
trong làng mà không biết đến những chiến thắng đối
với Trung Hoa và Mông Cổ - hai lực lượng quân sự
mạnh nhất ở Á Châu? Những biến cố này và cuộc tranh
đấu ngàn năm chống ngoại xâm đã được lồng vào trong
văn học, ca nhạc, và châm ngôn của họ. Đối với người
Việt, Điện Biên Phủ là một trận chiến khác trong đó
họ đã đánh bại quân xâm lược. Và hầu hết mọi người,
bất kể là thuộc tôn giáo, tầng lớp xã hội nào, hoặc
phục vụ cho quân đội Pháp, đều hãnh diện vì nó.
Người Mỹ có hiểu
được như vậy không? Người Mỹ có biết gì về Việt Nam
và lịch sử, văn hóa Việt Nam không? Hoàn toàn
không.”
(Dien Bien Phu was the
expression of that Viet nationalism and pride which
had been the strongest single event in the course of
their history. Was there a village schoolchild who
did not know of the victories over the Chinese and
Mongols – the two leading military powers in Asia?
These events and the millenium old struggle against
foreigners were woven into their literature, their
songs, their proverbs. To the Viets Dien Bien Phu
was another battle in which they had defeated the
invaders. And most of them, regardless of religion,
social class, or service with the French armed
forces, were proud of it.
Did the Americans
understand this? Did they know anything about
Vietnam and its history, its culture? Nothing.
(Mortimer T. Cohen in From Prologue to Epilogue
in Vietnam, N.Y., 1979, p. 206))
Chiến thắng Điện
Biên Phủ không chỉ là chiến thắng cho riêng người
Việt Nam mà
ảnh hưởng của chiến thắng này vang dội trên khắp thế
giới. Đã có không biết bao nhiêu nhà phân tích viết
về trận đánh này. Chúng ta có thể đọc cuốn “Điện
Biên Phủ (Cuộc bao vây làm thay đổi thế giới”[Dien
Bien Phu (Sieges That Changed the World)”]
của Richard Worth, nxb Chelsea House Publications;
hay đọc Mark Baker viết ngày 6 tháng 5 2004
trên
http://www.theage.com.au/: “Ngày 7 tháng 5,
1954, lực lượng Việt Nam đánh bại những quan thầy
thực dân Pháp ở Điện Biên Phủ. Đó là một trận đánh
làm thay đổi bộ mặt chính trị của thế giới và
đặt khung cảnh cho cuộc chiến Việt Nam [chống
Mỹ]” [On May 7, 1954, Vietnamese guerilla forces
defeated their French colonial masters at Dien Bien
Phu. It was a battle that changed the political face
of the world and set the scene for the Vietnam War.]
và “Điện Biên Phủ là nơi mà hồi chuông báo tử đã
vang lên cho chủ nghĩa thuộc địa của Pháp ở Á Châu
và là nơi mà màn mở đầu đã được viết lên cho sự nhục
nhã của lực lượng quân sự mạnh nhất trên thế giới
(Mỹ)” [where the death knell was sounded
for French colonialism in Asia, and where the
prelude was written to the humiliation of the
world's greatest military power. ]
Sau đây chúng ta hãy
đọc vài đoạn trong bài phân tích rất dài của Thiếu
Tá Mỹ, Harry D. Bloomer, trong bài “Một Phân Tích
Về Sự Thảm Bại Của Pháp Ở Điện Biên Phủ”
[AUTHOR: Major Harry D. Bloomer, USA: An Analysis Of
The French Defeat At Dien Bien Phu] để thấy ảnh
hưởng của chiến thắng Diện Biên Phủ trên thế giới
như thế nào. Sau đây là đoạn mở đầu của bài phân
tích.
“Ngày 7 tháng 5,
1954, căn cứ quân sự của Pháp ở Điện Biên Phủ thất
thủ, tột điểm của một chiến dịch kéo dài 209 ngày.
Trong 54 ngày sau cùng, căn cứ bị thường xuyên tấn
công. Đối với Pháp, Điện Biên Phủ là một cọng rơm đã
làm gẫy lưng con lạc đà. Hai tháng sau, ngày 40
tháng 7, 1954, một cuộc ngưng bắn chính thức đã được
điều đình giữa Pháp và Việt Minh ở Genève
[Không có phe Quốc
Gia]. Hiệp
định này chấm dứt 8 năm chiến tranh làm cho hơn
75000 người trong Lực Lượng Viễn Chinh của Pháp
chết…
Việt Minh đánh bại
Pháp ở Điện Biên Phủ trong một trận được lập lên cốt
yếu là để đánh bại Pháp theo chính kế hoạch dụ địch
của Pháp. Cú “sốc” về sự chiến bại của Pháp đã
vang dội trên khắp thế giới Tây phương. Như Đại
Tá William F. Long phát biểu sau cuộc chiến bại của
Pháp 12 năm, “Điện Biên Phủ hay DBP đã trở thành
một biểu tượng tốc ký của Đông phương đánh bại Tây
phương, biểu tượng cho sự chiến thắng của dân tộc
chưa phát triển. Điện Biên Phủ đã đưa đến nhiều hậu
quả chính trị nghiêm trọng. Sự chiến bại của Pháp
thật sự dứt khoát là một thảm bại cho cả Pháp lẫn
Mỹ, vì Mỹ, cho đến năm 1954, đã cung cấp 80% chiến
phí cho đội quân viễn chinh của Pháp ở Đông Dương.”
[On 7 May 1954 the
French garrison at Dien Bien Phu fell, culminating
an operation which lasted 209 days. The last 54 days
the garrison was actually under constant attack. For
the French, Dien Bien Phu was the straw that broke
the camel's back. Two months later, on 20 July 1954,
a formal cease-fire between the French and Viet Minh
was negotiated at Geneva. This agreement ended an
eight year war which produced over 75,000 killed for
France's Expeditionary Force. (1:367)..
The Viet Minh defeated
the French at Dien Bien Phu in a set-piece battle
which, in essence, amounted to beating the French at
their own game. The shock of this defeat
reverberated throughout the western world. As
Colonel William F. Long stated twelve years after
the defeat, "Dien Bien Phu or DBP has become an
acronym or shorthand symbol for defeat of the West
by the East, for the triumph of primitive.... Dien
Bien Phu resulted in severe political
consequences."(6:35) The French defeat was indeed an
utter disaster for both France and America who, by
1954, was underwriting 80% of French expenditures in
Indochina. (5:170) ]
Trong tờ Les
Collections de L’Histoire: Indochine Vietnam, số
23, Avril-Juin 2004, Paris, Jean Lacouture có viết
một bài dài 7 trang khổ lớn, từ trang 53 đến 59,
nhan đề “Cuộc Thảm Bại Điện Biên Phủ” [Le
Désastre de Dien Bien Phu]. Bài Le Désastre de
Dien Bien Phu của Jean Lacouture cho chúng ta
những nét chính về biến cố Điện Biên Phủ, không có
những chi tiết lặt vặt rườm rà, nhưng cũng đủ để
chúng ta có một cái nhìn tổng quát về những hoạt
động chính trị và quân sự của Pháp và Mỹ để cuối
cùng đưa tới sự thảm bại ở Điện Biên Phủ. Đối chiếu
với những tài liệu tôi đã đọc về Điện Biên Phủ của
những tác giả có thể coi như là trung lập, chuyên
dựa vào việc phân tích sự việc, tôi thấy bài của
Jean Lacouture rất đứng đắn, khó có ai có thể phủ
nhận giá trị học thuật của tác giả. Ở phần cuối bài
chúng ta có thể đọc đoạn sau đây của Jean Lacouture:
Tầm quan trọng của
sự thảm bại đó là như thế nào? Đó không chỉ là một
thảm bại mà người Á Châu giáng lên người Âu Châu,
của Cộng sản giáng trên những hệ thống (chính trị)
được gọi là “Tây phương”. Những người Việt Nam, khi
xưa là những chiến sĩ bị khinh khi, coi thường, đã
khẳng định giá trị quân sự của họ cũng như khả năng
kỹ thuật để có thể sử dụng những vủ khí tối tân
nhất. Đó cũng là dấu hiệu của sự cáo chung một đế
quốc: trong số những người bảo vệ khi xưa, nay là
những tù nhân, có nhiều ngàn người Phi Châu mà các
dân tộc ở đó học được rằng những thời đại mà luật
lệnh của người Pháp dựa trên sức mạnh và một “quyền”
nào đó đã qua rồi.
[De quelle portée
était ce désastre? Ce n’était pas seulement une
défaite infligée par l’homme d’Asie à celui de
l’Europe, par le communisme aux systemes dits
“occidentaux”. Les Vietnamiens, hier dédaignés comme
combattants, avaient affirmé aussi bien leur valeur
militaire que leur aptitude technique à faire usage
des armes les plus sophistiquées. C’était aussi le
signe de la fin d’un empire: parmi les défenseurs
d’hier, les prisonniers d’aujourd’hui, se trouvaient
des milliers d’Africains dont les peuples
apprenaient alors que les temps étaient résolus où
primait l’ordre français fondé sur la force et un
certain “droit”.]
Đó là “công thành” của
Đại Tướng Võ Nguyên Giáp, không chỉ ở Việt Nam mà
còn trên toàn thế giới, ở những nơi bị chế độ thực
dân ngự trị. Ở hải ngoại, có một thành phần thù hận
một chiều rơi rớt lại thuộc thiểu thiểu số, phần lớn
thuộc “Tổ Chức Tội Phạm Quốc tế”, không thể chấp
nhận “công thành” của Đại Tướng Võ Nguyên Giáp và
còn đang tìm cách phủ bác “công thành” của Tướng
Giáp và hạ uy tín của ông ta, qua những điều bịa đặt
dỏm... Từ xưa tới nay, nhất là ở Á Đông, điển hình
là Trung Quốc, Triều Tiên, trong bất cứ cuộc chiến
nào, câu “Nhất tướng công thành vạn cốt khô”
không còn xa lạ với người Việt Nam. Nhưng câu này
không có nghĩa đơn giản chỉ là “công thành” của một
tướng được xây dựng trên những xác chết như một số
người kém hiểu biết diễn giải. Vấn đề chúng ta phải
xét đến là “công thành” của một Tướng đã mang lại
những gì cho quốc gia, cho đất nước, có chính đáng
không. Câu trả lời đã thật rõ ràng về “công thành”
của Đại Tướng Võ Nguyên Giáp nếu chúng ta nhìn lịch
sử một cách không thiên vị. Không có gì quý hơn tự
do và độc lập, ông Hồ khi xưa đã nói vậy. Nhưng
chúng ta phải hiểu tự do ở đây có nghĩa là tự do của
Việt Nam thoát khỏi vòng nô lệ của thực dân Pháp,
không phải là thứ tự do cá nhân bừa bãi, vô cương,
vô pháp, vô trách nhiệm xã hội, tự do cầu nguyện với
búa, kìm, xà beng hay với gạch đá, tự do chửi rủa hạ
cấp, hiện đang xẩy ra ở Việt Nam, nấp sau chiêu bài
tự do, nhân quyền, dân chủ.
Trận Điện Biên Phủ: Ta
đánh hay Tàu đánh ?
Một luận điệu cực kỳ
ngu xuẩn nhằm mục đích giảm giá trị chiến thắng Điện
Biên Phủ của Đại Tướng Võ Nguyên Giáp mà vài người
chống Cộng đưa ra bất kể sự thực lịch sử là: chiến
thắng Điện Biên Phủ không phải là của Tướng Giáp mà
là của Tàu. Chẳng có ai phủ nhận là có mặt cố vấn
Tàu hay một số chuyên viên kỹ thuật Tàu có mặt ở
Điện Biên Phủ. Nhưng 4-5 Sư Đoàn tấn công Điện Biên
Phủ là người Việt Nam. Theo tài liệu trong bài “An
Analysis Of The French Defeat At Dien Bien Phu”,
AUTHOR Major Harry D. Bloomer, USA, CSC 1991, thì
những kế hoạch đối phó với những cuộc hành quân của
Navarre xung quanh Điện Biên Phủ và tấn công Điện
Biên Phủ đều do Đại Tướng Võ Nguyên Giáp hoạch định
và được ông Hồ, có mặt ở Điện Biên Phủ, và Bộ Chính
Trị chấp thuận. [Plans to deal with the [Navarre]
assault were quickly developed by Giap and approved
by Ho's Central Committee. The Viet Minh objectives,
in contrast to the French, were clear, consistent,
and certainly attainable. Giap's objective was to
destroy the French garrison at Dien Bien Phu.
(7:54). Furthermore, the Central Committee, to whom
Giap reported, fully supported Giap's plans.]
Tại sao lại có ý kiến
cho rằng Trung Cộng đóng một vai trò tích cực ở Điện
Biên Phủ.? Vì các cường quốc như Pháp, Mỹ không thể
tin được một dân tộc nghèo, chậm tiến như Việt Nam,
bị Pháp đô hộ trong 80 năm, mà lại có thể đánh bại
một đoàn quân của một cường quốc với ưu thế về mọi
chiến cụ, từ máy bay cho đến xe tăng tàu chiến do Mỹ
cung cấp. Cho đến sau này, trong cuộc chiến tranh
chống Mỹ, Tổng thống Johnson cũng coi thường, dè bỉu
quân đội nhân dân Việt Nam chỉ là một đoàn quân hạng
ba, gồm những kẻ mặc bà ba đen, đi dép cao-su và
không biết dùng nĩa (fork) để ăn. Nhưng cuối cùng,
kết quả cuộc chiến ra sao, chúng ta đã biết. Chúng
ta hãy đọc lời bình luận của Giáo sư Mortimer T.
Cohen về quan niệm cho rằng Tàu đánh ở Điện Biên Phủ
trong cuốn From Prologue To Epilogue In Vietnam,
trang 201-202:
“Ngày
5 tháng 4, 1954, trước ủy ban ngoại vụ của quốc hội,
Dulles như cuồng loạn trước sự viện trợ của Trung
Quốc cho Việt Nam và nói đó là một sự can thiệp trực
tiếp. Phản ứng của Mỹ “có thể không chỉ thu hẹp ở
Đông Dương”.
Ông ta đe dọa
Trung Quốc với chiến tranh.
Gốc rễ vấn đề của
Dulles là nếu Việt Minh đang đánh bại Pháp, và nước
Việt Nam của người Việt Nam - bất cứ nước nào khác
lấy quyền gì để vào đó đánh cho Pháp? Câu trả lời
của Dulles là không phải là người Việt đánh bại Pháp
mà là người Tàu. Người Tàu đã xâm lược Việt Nam và
Pháp đã chống lại sự xâm lược, giống như Hoa Kỳ đã
chống lại sự xâm lược ở Triều Tiên.
Chỉ có điều là -
chẳng có tí sự thực nào trong đó.
Không có Tàu ở Điện Biên Phủ như Dulles đã khẳng
định. Bộ Tổng Tham Mưu của Pháp nói rằng
không có một tù binh nào, sống cũng như chết, là
Tàu. Năm 1959, một viên chức Nam Việt Nam
– khó có thể là thân Cộng bị tuyên truyền – nói về
“lực lượng tối tân và mạnh mẽ của Pháp bị đánh bại
bởi những chiến sĩ Việt Nam trang bị yếu kém về vũ
khí mà.. chưa từng có sự tiếp tay của quân đội
Nga hay Tàu.”
Pháp, với sự viện
trợ của Mỹ lên tới nhiều trăm triệu đô la, bị đá
khỏi Đông Dương bởi những dân bản xứ, với quân cụ
cung cấp bởi Trung Quốc và Nga Sô, và Mỹ toan tính
can thiệp vì cho là sự tiếp nhận viện trợ của Việt
Minh từ các nước khác là một tội ác đối với nhân
loại, với nền văn minh Tây phương, và Ki Tô Giáo.
Tướng Navarre
cũng phụ họa luận điệu là Trung Quốc đã can thiệp,
cho rằng Trung Quốc không có quyền vào Việt Nam như
Pháp.
Jules Roy tóm tắt
thật hay như sau:
“Những lời tuyên
bố của John Foster Dulles và Tướng Navarre về những
chuyên viên Trung Quốc đơn giản chỉ là truyền cảm ý
muốn bào chữa cho những sự thất bại của họ.”
(5 April before the
House Foreign Affairs Committee Dulles got
hysterical about Chinese aid to the Vietminh and
said it amounted to direct intervention. American
reaction to this “might not be confined to
Indochina.
He was threatening
China with war.
The root of Dulles’
problem was that if the Vietminh were beating the
French, and if Vietnam belonged to the Viets – what
the hell right did any other nation have to come in
and fight for France? Dulles’ answer was that the
Viets were not beating France – it was the Chinks.
They had invaded Vietnam and France was resiting
their invasion, as the US resisted the invasion of
South Korea.
Only trouble – there
wasn’t a word of truth to it. There were no Chinese
at Dien Bien Phu, as Dulles claimed. The French
General Staff said no prisoners, wounded or dead had
been identified as Chinese. In 1959 a South
Vietnamese – hardly prone to pro-Communist
propaganda – spoke of “powerful modern French armies
defeated by poorly armed Vietnamese fighters
who...never were helped by Russian or Chinese
troops.”
The French, with
hundreds of millions in American aid, were getting
kicked out of Indochina by the natives, who got
their supplies from China and Russia, and the US was
trying to intervene as if the acceptance of aid by
the Vietminh from other nations constituted a crime
against humanity, Western civilization, and
Christianity.
General Navarre also
echoed the line that the Chinese were “intervening”
as if China has less right to be in Vietnam than the
French.
Jules Roy summed it up
well.
“ ....The statements
made by John Foster Dulles and General Navarre about
Chinese technicians were simply inspired by their
desire to explain away their failures.”)
Và ngày nay, mấy kẻ có
đầu mà không có óc vẫn đưa ra những luận điệu ngu
xuẩn này với hi vọng có thể lừa dối người dân bằng
thủ đoạn xuyên tạc lịch sử.
Ngày 30.4.1975: Bắc
Việt xâm lăng cưỡng chiếm miền Nam ?
Ở hải ngoại, cứ đến
ngày 30.4 mỗi năm, chúng ta lại thấy xuất hiện lải
nhải những luận điệu như “ngày quốc hận”, “ngày mất
nước”, “Việt Cộng xâm lăng cưỡng chiếm miền Nam”
v..v… Những người phát ra những cụm từ này chỉ chứng
tỏ là mình cực kỳ ngu xuẩn, nhưng mà họ không bao
giờ biết ngượng, vì chính danh của ngày đó là “ngày
tháo chạy” hay “ngày VNCH sụp đổ”, hay “ngày đầu
hàng” v..v… Nhưng những từ “quốc” và “nước” này có
thể áp dụng cho miền Nam Việt Nam không. Đối với
tôi, và tôi tin chắc là đối với đa số người dân Việt
Nam, thì miền Nam không phải là một quốc gia riêng
biệt của một sắc dân khác, dù rằng trong đó có 7% tự
nhận là con dân của Chúa, đúng ra là con dân của một
“Tổ Chức Tội Phạm Quốc Tế”, chứ không phải của nước
Việt, nhưng trên thực tế chẳng có ai muốn về trời
sớm để sống với Chúa ở trên trời. Miền Nam là một
phần đất của Việt Nam do công ơn Nam tiến mở mang
đất nước của tổ tiên trong quá khứ. Người Việt
Nam “xâm lăng” chính quốc gia của mình? Đây là một
luận điệu vừa ngu xuẩn vừa lố bịch nhất hành tinh.
Người nào không đồng ý xin mời lên tiếng.
Chúng ta hãy đọc vài
đoạn trên:
http://www3.wooster.edu/history/jgates/book-ch8.html
của Phillip B. Davidson trong tài liệu
JOHN M. GATES, THE
U.S. ARMY AND IRREGULAR WARFARE, CHAPTER EIGHT :
PEOPLE’S WAR IN VIETNAM
Cuộc chiến Việt
Nam không phải là một cuộc xâm lăng của miền Bắc
chống miền Nam,
cũng chưa bao giờ là cuộc chiến thuần túy theo quy
ước. Từ đầu tới cuối, cuộc chiến Việt Nam là một
cuộc chiến của nhân dân, và Cộng sản thắng, như một
Tướng Mỹ đã từng phục vụ ở Việt Nam đã nhận định, vì
họ có “một đại chiến lược lỗi lạc, chặt chẽ, trường
kỳ - chiến lược của chiến tranh cách mạng.”
[The war in Vietnam
was not a war of aggression by the North against the
South, nor was it ever a purely conventional war.
From start to finish, the Vietnam War was a people's
war, and the communists won because they had, as one
American general who served in Vietnam observed, "a
coherent, long-term, and brilliant grand
strategy--the strategy of revolutionary war."
[Phillip B. Davidson, Vietnam at War: The
History: 1946-1975 (Novato, CA, 1988), p. 796.]]
Bất kể tới mức độ
nào mà chúng ta mong muốn tin rằng chiến lược về
cuộc chiến tranh nhân dân đã thất bại ở Việt Nam
[vì cho
rằng chiến tranh nhân dân chỉ là chiến tranh du
kích] hay
Cộng sản miền Bắc chinh phục miền Nam bằng một cuộc
chiến tranh xâm lăng theo quy ước, những quan điểm
như vậy không được xác minh bởi các bằng chứng.
Muốn hiểu cuộc chiến, trước hết chúng ta phải từ
bỏ quan điểm là cuộc xung đột là một cuộc xâm lăng
của miền Bắc chống miền Nam, và nhận thức
được rằng sự chiến thắng của Cộng sản là kết quả của
sự thành công thi hành một chiến lược của chiến
tranh nhân dân.
[No matter how much
people might wish to believe that the communist
strategy of people's war failed in Vietnam or that
communists from the North conquered the South in a
conventional invasion, those views are not well
supported by the evidence. To understand the war,
one must first abandon the view that the conflict
was a war of aggression, North against South, and
recognize that the communist triumph was the result
of the successful implementation of a strategy of
people's war.]
Nhưng thật ra từ đâu
mà có cuộc chiến Việt Nam hậu Geneva, một cuộc chiến
mà không ai mong muốn, nhất là Bắc Việt, vì sau một
cuộc chiến gian khổ chống Pháp để đạt được thắng lợi
trên chiến trường Bắc Việt hi vọng quốc gia sẽ
thống nhất bằng con đường chính trị thay vì quân sự.
Bắc Việt đã đề nghị Nam và Bắc cùng nhau bàn thảo
về cuộc Tổng Tuyển Cử năm 1956. Sau khi Diệm từ
chối và không chịu thi hành Tổng Tuyển Cử theo quy
định của Hiệp Định Geneva thì Bắc Việt lại đề
nghị Nam Bắc hiệp thương. Nhưng vì chính sách
ngu xuẩn của Ngô Đình Diệm ở miền Nam, nhất định
phải chống Cộng cho Chúa, trả thù giết hại bừa bãi
người kháng chiến, và mưu đồ Ca-tô hóa miền Nam,
toan tính đưa miền Nam vào trong vòng nô lệ của một
“Tà đạo, đạo chích, đạo bịp” mà ngày nay hiện nguyên
hình trước thế giới là một “Tổ Chức Tội Phạm Quốc
Tế”, và trước sự xâm lăng trắng trợn của Mỹ vào Nam
Việt Nam, cho nên cuối cùng Bắc Việt mới phải dùng
đến biện pháp quân sự. Chúng ta hãy đọc vài tài liệu
để thấy rõ nguyên nhân là từ đâu.
Tài liệu của Ngũ Giác
Đài (The Pentagon Papers), hiển nhiên không
phải thuộc loại phản chiến hay thiên Cộng, viết:
Tài liệu Ngũ Giác
Đài nói, tình báo Mỹ ước tính trong thập niên
1950 là chiến tranh phát khởi phần lớn là do
sự nổi giậy ở miền Nam để chống chế độ tham nhũng và
càng ngày càng đàn áp dân chúng của Ngô Đình Diệm
.
Tài liệu Ngũ Giác
Đài nói về những năm 1956-1959, khi mà cuộc nổi giậy
bắt đầu, hầu hết những người đứng lên cầm vũ khí là
những người Việt miền Nam và những nguyên nhân họ
chiến đấu không có cách nào có thể bảo đó là
do kế hoạch tính toán trước ở Bắc Việt.
Chỉ có rất ít bằng
chứng là Bắc Việt đã chỉ đạo, hoặc có khả năng để
chỉ đạo, những sự bạo động ở miền Nam
(3 tháng cuối 1957: 75
viên chức địa phương bị ám sát. Ngày 22 tháng 10,
1957, 13 người Mỹ bị thương trong 3 cuộc nổ bom ở
Saigon)
Từ năm 1954 đến năm
1958 Bắc Việt tập trung vào sự phát triển nội bộ,
hiển nhiên là hi vọng vào một cuộc thống nhất đất
nước hoặc qua cuộc bầu cử theo như Hiệp Định Genève
hoặc là kết quả của sự sụp đổ đương nhiên của chế độ
Diệm yếu ớt. Cộng sản để lại ở miền Nam một bộ phận
nòng cốt khi họ đi tập kết ra Bắc năm 1954 sau cuộc
chiến với Pháp chấm dứt, nhưng những cán bộ được
lệnh chỉ được “tranh đấu chính trị”[để
sửa soạn kiếm phiếu trong cuộc bầu cử mà Bắc Việt hi
vọng, và điều này không vi phạm hiệp định Genève].
Tháng 5, 1959, các
nhà lãnh đạo Bắc Việt quyết định nắm quyền cuộc nổi
giậy càng ngày càng lớn mạnh ở miền Nam.
Tài liệu Ngũ Giác
Đài nói, cả tình báo Mỹ và các tù binh Việt Cộng
đều cho sự thành công nhanh chóng của Việt Cộng sau
1959 là do những sai lầm của Diệm.
Tài liệu Ngũ Giác
Đài mô tả trạng thái tâm lý của Ngô Đình Diệm như là
của một “Đại Phán Quan Tây Ban Nha).
(American Intelligence
estimates during the 1950s show, The Pentagon
account says, that the war began largely as a
rebellion in the South against the increasingly
oppressive and corrupt regime of Ngo Dinh Diem.
“Most of those who
took up arms were South Vietnamese and the causes
for which they fought were by no means contrived in
North Vietnam,” the Pentagon account says of the
years from 1956 to 1959, when the insurgency began.
There is only sparse
evidence that North Vietnam was directing, or was
capable of directing, that violence (Last quarter of
1957: 75 local assassinated or kidnapped. On October
22, 1957, 13 Americans were wounded in three
bombings in Saigon)
From 1954 to 1958
North Vietnam concentrated on its internal
development, apparently hoping to achieve
reunification either through the election provided
for in the Geneva settlement or through the natural
collapse of the weak Diem regime. The Communist left
behind a skeletal apparatus in the South when they
regrouped to North Vietnam in 1954 after the war
with the French ended, but the cadre members were
ordered to engage only in “political struggle.”
North Vietnam’s
leaders formally decided in May, 1959, to take
control of the growing insurgency.
The Pentagon account
says that both American intelligence and Vietcong
prisoners attributed the Vietcong’s rapid success
after 1959 to the Diem’s mistakes.
Diem’s mentality is
described in the account as like that of a “Spanish
Inquisitor”.)
Đến đây, có lẽ chúng
ta cũng nên tìm hiểu chút ít là chính quyền Ngô Đình
Diệm đã làm những gì để cho người dân miền Nam phải
nổi giậy chống đối, và như chúng ta đã biết, không
phải là chủ trương của Bắc Việt cho đến năm 1959.
Đây không phải là chỗ đi vào chi tiết những hành
động khủng khiếp của chính quyền Diệm đối với người
dân, các đảng phái, và tôn giáo khác. Quý độc
giả nào muốn biết rõ hơn thì có thể tham khảo nhiều
cuốn sách hiện hữu ngày nay bằng tiếng Anh, hoặc hai
cuốn “9 Năm Máu Lửa Dưới Chính Quyền Ngô Đình
Diệm” của Nguyệt Đam và Thần Phong, và “Đảng
Cần Lao” của Chu Bằng Lĩnh. Ở đây, tôi chỉ đưa
ra vài nét chính qua những nhận định của Giáo sư
Mortimer T. Cohen trong cuốn From Prologue To
Epilogue In Vietnam, trang 240, 41, 61:
Diệm là một người
Ca-tô thuộc thời Trung Cổ - ông ta đúng, mọi người
khác đều sai. Chân lý
(Phúc Âm)
có quyền ưu tiên, không có những sự sai lầm. Và,
biết rõ bản chất bất ổn định của quyền cai trị của
ông ta, ông ta bị ám ảnh bởi ý tưởng là người nào
phê bình bất cứ điều gì về chế độ của ông ta cũng là
những kẻ thù thâm căn cố đế.
Ông ta là thánh
Dominique
(Người được Giáo Hội Công Giáo giao cho nhiệm vụ
phát động những Tòa Án Xử Dị Giáo (The Inquisition)
trong thời Trung Cổ, để tra tấn và giết oan vô số
người vô tội).
Tháng 5, 1955, ông
ta mở chiến dịch Tố Cộng. Hiệp Định Genève đặc
biệt cấm không được trả thù chính trị.
Do đó, Diệm đã khởi
sự những sự thù nghịch. Chính hắn, bằng chính
sách tấn công tiêu diệt cựu kháng chiến Việt Minh,
đã khởi sự cuộc chiến ở miền Nam. Và chúng
ta cần nhấn mạnh là, hắn ta hành động như vậy không
phải là để trả đũa bất cứ sự khiêu khích nào của
Việt Minh, nhưng từ sự thúc đẩy là phải tiêu diệt
Cộng đỏ - tinh thần của một tên Ca-tô Giáo thời
Trung Cổ đi săn lùng kẻ lạc đạo...
(Diem was a medieval
Catholic – he was right, the others were wrong.
Truth has privileges, error đoes not have. And, well
aware of the precarious nature of his rule, he was
obsessed with the idea that all who criticized
anything about his regime were inveterated enemies.
He was St. Dominick.
June of ’55 he opened
an “Anti-Communist Denunciation Program”. The Geneva
Accord specifically forbade political reprisals.
Thus, Diem began the
hostilities. It was he, who by his assault on the
Vietminh, began the fighting in the South. And, it
must be emphasized, that he did this not in response
in any Vietminh provocations, but out of his
compulsion to exterminate the Reds – the spirit of
the Medieval Catholic heretic-hunter.)
Phê bình chiến dịch Tố
Cộng với những kết quả khủng khiếp của nó qua một
vài con số trích dẫn mà tôi không muốn kê ra ở đây,
Avro Manhattan viết trong cuốn Vietnam: Why Did
We Go, 1984, trang 99, như sau:
Đằng sau cái bề mặt
(Tố Cộng),
mục tiêu thực của nó là Ca-tô hóa quốc gia.
Sự đàn áp của Ca-tô Giáo ở Nam Việt Nam không phải
là sự tác động của một cá nhân cuồng tín, hay của
một nhóm cá nhân thí dụ như ba anh em của Diệm, hiến
thân cho chính sách Ca-tô hóa một nước Phật Giáo. Nó
là phó sản của một chính sách dài hạn đã được tính
toán cẩn thận, nhận thức và đẩy mạnh bởi những bộ óc
mà những mục tiêu căn bản là bằng mọi giá, bành
trướng một tôn giáo mà họ tin chắc rằng là một tôn
giáo chân thật duy nhất trên thế giới.
Người gây cảm hứng
chính và theo đuổi chính sách này, như chúng ta đã
thấy, là Giáo Hoàng Pius XII. Chính sách đó hoàn
toàn hợp điệu với chiến lược toàn cầu của ông ta,
nhắm tới hai mục tiêu căn bản: tiêu diệt Cộng Sản,
và bành trướng Giáo Hội Ca-tô.
[Chúng ta biết rằng, trong cuộc kháng chiến chống
Pháp, chính Pius XII đã đe dọa “tuyệt thông” bất cứ
giáo dân Việt Nam nào giúp đỡ Cộng sản, có liên hệ
với Cộng sản, đọc sách báo Cộng sản. Do đó Ca-tô
giáo Việt Nam dưới quyền của các bề trên ngu xuẩn
tin vào quyền năng của vạ tuyệt thông như GM Lê Hữu
Từ và LM Hoàng Quỳnh, Phạm Ngọc Chi đã tiếp tay quân
đội Pháp, săn lùng và giết hại người kháng chiến yêu
nước. TCN]
[Behind itd facade its
real objective was the Catholicization of the
Country. The Catholic repression of South Vietnam
was not the work of a fanatical individual, or a
group of individuals, like the three Diem brothers,
dedicated to the Catholicization of a Buddhist
country. It was the by-product of a well calculated
long range policy conceived and promoted by minds
whose basic objectives were the expansion at all
costs, of a religion which they were convinced was
the only true religion on earth.
The main inspirer and
prosecutor of such a policy, as we have seen, was
Pope Pius XII. Such policy was totally consonant
with his globl strategy, directed at two fundamental
objectives: the destruction of Communism, and the
expansion of the Catholic Church.]
Nếu muốn nói về xâm
lăng miền Nam thì thực ra thế lực nào đã xâm lăng
miền Nam?
Chiến tranh Việt Nam
đã chấm dứt, vậy mà 27 năm sau, Daniel Ellsberg còn
viết trong cuốn Secrets: A Memoir of Vietnam and
the Pentagon Papers, Viking, 2002, p.255:
“Theo tinh thần
Hiến Chương Liên Hiệp Quốc và theo những lý tưởng mà
chúng ta công khai thừa nhận, đó là một cuộc
ngoại xâm, sự xâm lăng của Mỹ”.
(In terms of the UN
Charter and our own avowed ideals, it was a war of
foreign agression, American aggression.)
Trong cuốn Chiến
Tranh Việt Nam Và Văn Hóa Mỹ (The Vietnam War
and American Culture, Columbia University Press, New
York, 1991), hai Giáo sư ở đại học Iowa, John Carlos
Rowe và Rick Berg, viết, trang 28-29:
Khi Pháp rút lui,
Mỹ lập tức dấn thân vào việc phá hoại Hiệp Định
Genève năm 1954, dựng lên ở miền Nam một chế
độ khủng bố, cho đến năm 1961, giết có lẽ khoảng
70000 “Việt Cộng”, gây nên phong trào kháng chiến mà
từ 1959 được sự ủng hộ của nửa miền Bắc tạm thời
chia đôi bởi Hiệp Định Genève mà Mỹ phá ngầm… Nói
ngắn gọn, Mỹ xâm lăng Nam Việt Nam, ở đó Mỹ đã
tiến tới việc làm ngơ tội ác xâm lăng với nhiều tội
ác khủng khiếp chống nhân loại trên khắp Đông Dương.
[When France withdrew,
the US dedicated itself at once to subverting the
1954 Geneva settlement, installing in the south a
terrorist regime that killed perhaps 70000 “Viet
Cong” by 1961, evoking resistance which, from 1959,
was supported from the northern half of the country
temporarily divided by the Geneva settlement that
the US had undermined… In short, the US invaded
South Vietnam, where it proceeded to compound the
crime of aggression with numerous and quite
appalling crimes against humanity throughout
Indochina.]
Với những tài liệu của
những học giả và trí thức Mỹ như trên, không có lý
do gì chúng ta có thể cho rằng họ thiên Cộng hay
thân Cộng. Cũng như những bài viết nghiên cứu lịch
sử và tôn giáo trên Sách Hiếm hoặc Giao Điểm, nếu
không ai có thể phủ bác được điều nào, thì đó chính
là những sự thật lịch sử. Sự thật lịch sử không
thiên vị, không có tính cách bè phái. Cho nên những
kẻ nào nói các tác giả trên Sách Hiếm hay Giao Điểm
là thiên Cộng hay thân Cộng chỉ tự chứng tỏ họ là
những kẻ ngu xuẩn, không thể ở trong giới trí thức,
và chưa bao giờ biết ngành học thuật.
Vài Lời Kết.
Viết bài này tôi biết
chắc chắn là sẽ lại có vài cái mũ chụp lên đầu nhưng
tôi chẳng quan tâm đến những người làm nghề buôn nón
cối, thường là những người không biết gì là lý luận,
là phân tích, là đối thoại, là phản biện ngoài việc
dùng những danh từ hạ cấp, chửi rủa người mà mình
không đồng ý. Những hạng người này không phải là
những đối tượng độc giả để tôi viết lên những bài
thuộc loại nghiên cứu phân tích như bài này cũng như
tất cả những bài khác.. Những hạng người này Giáo sư
sử Nguyễn Mạnh Quang đã liệt vào loại “côn đồ văn
hóa” hay “đao phủ văn chương”. Có người còn lên
tiếng đòi đối thoại với tôi. Nhưng trình độ quá khác
biệt thì làm sao có thể đối thoại. Tôi không nói là
trình độ về bằng cấp mà là trình độ hiểu biết về vấn
đề cần thảo luận. Vả chăng ai mà lại đi đối thoại
với những “côn đồ văn hóa’ hay “đao phủ văn chương.”
Tài liệu ngoại quốc về
Đại Tướng Võ Nguyên Giáp thì có rất nhiều. Tôi thành
thực đề nghị người nào muốn biết thêm về một danh
tướng của Việt Nam mà tên tuổi vang dội khắp thế
giới hãy đọc thêm ít ra là hai bài sau đây để hiểu
rõ hơn về Đại Tướng Võ Nguyên Giáp.
An Officer and a Gentleman:
General Vo
Nguyen Giap as Military Man and Poet
By Cecil B. Currey
Vietnam’s incomparable military leader
By G. Dunkel
Published Sep 4, 2008
10:59 PM
Đoạn kết trong bài của
Dunkel như sau:
Tuy nhiên, cuộc xâm
lăng của Mỹ chống Việt Nam vẫn tiếp tục trong dạng
thức những ảnh hưởng khủng khiếp, kéo dài, từ chất
độc da cam, chất sát trùng khủng khiếp trải trên
nhiều vùng rộng lớn ở Việt Nam bởi không quân Mỹ.
Ngay cả sau ba thế hệ, 150,000 trẻ Việt Nam vẫn đau
đớn bởi những dị dạng về thể chất và tinh thần gây
nên bởi chất độc da cam.
Những cuộc tranh
đấu của Việt Nam
[để giành độc lập]
muôn năm! Đại Tướng Võ Nguyên Giáp muôn năm !
[U.S. aggression
against Vietnam, however, still continues in the
form of lingering, terrible effects from Agent
Orange, the herbicide spread over huge areas of
south Vietnam by the U.S. Air Force. Even after
three generations, 150,000 Vietnamese children
suffer from physical and mental abnormalities caused
by Agent Orange.
Long live Vietnam and
its struggles! Long live Senior Gen. Vo Nguyen
Giap!]
Trần Chung Ngọc
Ngày 7 tháng 10, 2013