Showing posts with label dai gia. Show all posts
Showing posts with label dai gia. Show all posts
Tuesday, March 5, 2013
Vụ án Minh Phụng - Epco sau 10 năm nhìn lại
Cho đến tận bây giờ, vụ án Minh Phụng – Epco vẫn đang giữ khá nhiều kỷ lục, đặc biệt về giá trị tài sản phải thi hành án, theo đó các bị cáo và các doanh nghiệp thuộc 2 nhóm Epco và Minh Phụng phải bồi thường và thanh toán các khoản nợ cho 6 Ngân hàng Thương mại.
Cách đây 10 năm, vụ án hình sự Minh Phụng – Epco ngay trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử theo luật pháp hiện hành đã thu hút được sự chú ý cao độ của xã hội. Và sau đó, hậu vụ án này cũng làm tốn không biết bao nhiêu giấy mực của các nhà nghiên cứu pháp lý và báo chí, trong quá trình xử lý phần phát sinh của vụ án liên quan đến thi hành án phần tài sản.
Tuy nhiên, sau 10 năm, có nhiều vấn đề về pháp lý, về kinh tế xung quanh vụ án Minh Phụng – Epco được nhìn nhận toàn diện hơn và ý nghĩa thời sự của vụ án vẫn còn nóng hổi, đặc biệt là trong lĩnh vực đầu tư và kinh doanh bất động sản. Báo CAND xin trở lại vụ án này qua phóng sự điều tra của tác giả Nguyễn Công Long, xin trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc.
Hẳn rất nhiều người còn nhớ, mười năm trước đã xảy ra một vụ án gây chấn động dư luận với hàng loạt đại gia và cán bộ ngành Ngân hàng phải hầu tòa, đó là vụ Minh Phụng – Epco.
Cho đến tận bây giờ, vụ án này vẫn đang giữ khá nhiều kỷ lục, đặc biệt về giá trị tài sản phải thi hành án, theo đó các bị cáo và các doanh nghiệp thuộc 2 nhóm Epco và Minh Phụng phải bồi thường và thanh toán các khoản nợ cho 6 Ngân hàng Thương mại: Công thương Việt Nam (Incombank), Ngoại thương Việt Nam (Vietcombank), Ngân hàng Thương mại cổ phần xuất nhập khẩu Việt Nam (Eximbank), Sài Gòn Công thương Ngân hàng; Ngân hàng Thương mại cổ phần Đại Nam; Ngân hàng Thương mại cổ phần Gia Định, tổng số tiền gần 6.000 tỷ đồng và 32,6 triệu USD.
Bên cạnh đó, số tài sản phải xử lý để bảo đảm thi hành án cũng đứng hàng “top ten” với trên 390 danh mục gồm 476 đơn vị tài sản là nhà xưởng, dây chuyền sản xuất, máy móc, kho tàng, văn phòng, biệt thự v.v… khối tài sản này Tòa án xác định tại thời điểm xét xử trị giá trên 2.232 tỷ đồng.
Nội tình vụ việc đã tiêu tốn không ít giấy mực của báo giới, nhiều tờ báo, tạp chí, kể cả các báo, tạp chí có uy tín trước đó quảng cáo rất màu mè cho Công ty Minh Phụng và Công ty Epco (và dĩ nhiên, tiêu tốn của các doanh nghiệp này không ít tiền), đến khi vụ án xảy ra thì chính các báo, tạp chí này lại là người buộc tội các bị cáo đanh thép nhất (!).
Dưới đây, chúng tôi sẽ không nêu lại những tình tiết của vụ án, bởi các hành vi phạm tội của Tăng Minh Phụng và các bị cáo đã được Tòa án phán xử, các bị án cũng đã phải chịu những hình phạt nghiêm khắc nhất, vả lại, toàn bộ diễn biến cũng như nội tình vụ án đã được báo chí phân tích, mổ xẻ rất kỹ lưỡng trong thời gian dài.
Điều mà chúng tôi muốn nói ở đây là qua thời gian mười năm, những chiêm nghiệm và kiểm chứng qua thực tế cho phép chúng ta có thể đánh giá sự sụp đổ của Minh Phụng với cái nhìn khách quan hơn. Liệu sự thất bại của Minh Phụng, của Epco có giúp gì đôi chút kinh nghiệm cho các nhà đầu tư, các ngân hàng và cả người dân hiện vẫn đang say trong cuộc chơi bất động sản được thua như đánh bạc hiện nay hay không? Và liệu từ thực tiễn điều tra, xét xử, thi hành vụ án này, các cơ quan tố tụng có thể đúc rút được điều gì?
Sự sụp đổ của một “đế chế”
Vào thời gian năm 1993-1996, qua các phương tiện thông tin đại chúng, người ta có thể thấy Công ty Minh Phụng nổi lên như là một “tập đoàn” kinh tế năng động và rất thế lực. Mức độ tăng trưởng và sự bành trướng các lĩnh vực kinh doanh của doanh nghiệp này thể hiện qua số liệu các trang quảng cáo của rất nhiều tờ báo, tạp chí làm cho không ít người kinh ngạc
Thực tế thì sự cả tin vào tiềm lực của Minh Phụng không phải là không có căn cứ. Hình thành từ những năm đầu thập kỷ 80 của thế kỷ trước, với chức năng chủ yếu là sản xuất, gia công hàng may mặc, giày dép xuất khẩu, giai đoạn đầu Công ty Minh Phụng có những bước phát triển rất ổn định, doanh số có năm lên tới nhiều triệu USD.
Tính đến trước khi xảy ra vụ án, Minh Phụng có tới 15 phân xưởng sản xuất gồm 10 phân xưởng may mặc, 1 phân xưởng chuyên ngành nhựa, một phân xưởng dệt gòn, một phân xưởng bao bì PP, 1 phân xưởng thiết kế mỹ thuật cho hàng hóa ngành may và 1 phân xưởng thiết kế vi tính. Quy mô sản xuất thời điểm cao nhất có trên 9.000 lao động.
Ngày nay, khi đề cập đến lĩnh vực kinh doanh BĐS, bất cứ doanh nghiệp nào dù nhỏ hay lớn đều có thể nói vanh vách về quy hoạch, về dự án v.v… (còn các chiêu thức “thổi giá” như các nhà kinh doanh BĐS đang làm thì mê hồn trận!).
Nếu xem lại quá trình kinh doanh của Minh Phụng, hẳn không ít người sẽ cho nó là ấu trĩ, nhiều người sẽ đặt ra câu hỏi vì sao lựa chọn kinh doanh BĐS bằng toàn bộ vốn vay ngân hàng mà Minh Phụng lại đầu cơ số lượng lớn, tạo ra sự tăng trưởng nóng trong thời gian ngắn đến như vậy, và tại sao, vay đầu tư BĐS mà hầu hết là vay ngắn hạn, chứ không vay trung hay dài hạn?
Hơn nữa, kinh doanh BĐS mà lại không định hướng rõ ràng, không xác định được vùng trọng điểm, bạ đâu làm đấy, xem danh mục BĐS mà Minh Phụng đã đầu tư trải dài suốt từ Đà Lạt, Bình Dương, TP Hồ Chí Minh, Bà Rịa – Vũng Tàu, thậm chí cả Hà Nội, thì hẳn rất nhiều người sẽ có chung nhận xét, dù có tài ba đến mấy thì một bộ máy như Minh Phụng khó có thể quản lý hết được hàng triệu mét vuông đất chuyên dùng, không thể cùng một lúc triển khai hàng trăm dự án về hạ tầng khắp các tỉnh, thành trong cả nước, làm ăn như thế không sập tiệm mới là lạ.
Nhưng hãy lùi lại khoảng thời gian đầu thập niên 90 của thế kỷ trước, trong khi thị trường BĐS chưa hình thành rõ nét, cơ chế, chính sách về đất đai không đồng bộ, tình trạng tranh mua, tranh bán rất phổ biến. Những đợt sốt đất đầu những năm 90 làm lóa mắt không ít người, thực tế cũng có nhiều kẻ phất lớn từ đất đai.
Cũng giống nhiều doanh nghiệp khác, Minh Phụng mong muốn nhanh chóng chớp thời cơ, tích lũy được càng nhiều đất càng tốt, chờ cơ hội sẽ bán ra được với giá cao hơn, điều này không phải là không có lý, vì đất đai không thể đẻ ra được. Ngay từ đầu Minh Phụng đã xác định đầu tư trên quy mô lớn, nhất quyết không làm ăn cò con, sự tăng trưởng quá nóng vô hình trung đã biến Minh Phụng trở thành một “đại lý” về địa ốc, la liệt nhà, đất khắp nơi.
Phương thức kinh doanh địa ốc theo kiểu hàng xén như vậy, hẳn nhiên sự bất trắc là không thể tránh, bởi cũng giống như tất cả các đợt “sốt” trên thị trường, thời điểm Minh Phụng nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất là đỉnh điểm của cơn sốt, khi qua cơn sốt thì bán không có người mua.
Cha ông ta đã đúc kết buôn tài không bằng dài vốn, nếu thực sự có khả năng đầu cơ đất đai chờ đến chu kỳ sốt tiếp theo, hẳn là Minh Phụng đã phát tài. Song toàn bộ khối tài sản là từ vốn vay, giả sử có chờ được cơn sốt tiếp theo, thì khoản lợi nhuận thu được cũng khó có thể bù đắp cho số lãi mẹ đẻ lãi con, có lẽ bi kịch bắt đầu từ đây
Về hình thức huy động vốn, có người cho Minh Phụng thật điên khùng khi vay ngân hàng để đầu tư vào BĐS mà chủ yếu là vay ngắn hạn lãi suất cao. Tuy nhiên, vào thời điểm trên, các định chế về bảo đảm tiền vay rất bó buộc.
Để có thể được chấp nhận vay vốn của ngân hàng, doanh nghiệp phải đáp ứng rất nhiều yêu cầu nhiêu khê, đó là chưa kể đến sự nhũng nhiễu của một bộ phận cán bộ biến chất tại các ngân hàng. Nếu đáp ứng đủ các yêu cầu này thì thời cơ đầu tư vào BĐS đã qua đi (do sự hỗn loạn mua bán trên thị trường).
Do vậy, để chớp thời cơ, Minh Phụng buộc phải chọn giải pháp cố đấm ăn xôi là “đẻ” thêm hàng chục công ty. Thực tế hàng chục công ty con của Minh Phụng thực chất là các doanh nghiệp “ma” không hề có thực, toàn bộ số vốn đều là ảo, giám đốc, kế toán đều là những người làm thuê, thậm chí đó là những người vốn là bảo vệ, lái xe, lao công, các công ty này có nhiệm vụ duy nhất được sinh ra để vay vốn ngân hàng, mọi hoạt động vẫn hoàn toàn do Tăng Minh Phụng điều hành.
Ngoài ra, để thỏa cơn khát vốn, Minh Phụng còn áp dụng các “chiêu” không ai tưởng tượng nổi, đó là ký các hợp đồng mua bán, nhập khẩu hàng hóa dù biết chắc thương vụ sẽ lỗ, mục đích nhằm thông qua các hợp đồng này các ngân hàng có “cớ” để mở L/C hoặc ký bảo lãnh cho Minh Phụng có tiền.
Sự “phối – kết – hợp” giữa Minh Phụng và một số cán bộ ngân hàng biến chất còn thể hiện ở việc nâng khống giá trị tài sản thế chấp lên nhiều lần, đến khi xét xử vụ án, Tòa án đã xác định giá trị tài sản thế chấp thấp hơn giá trị thực hàng ngàn tỷ đồng.
Với tất cả những điều này, viễn tưởng về sự thành công của mô hình Minh Phụng chỉ là điều ảo mộng và Minh Phụng đã phải trả giá đắt. Nhưng có lẽ điều có ý nghĩa nhất trong các sai lầm của Minh Phụng là cách thức điều hành, tổ chức hệ thống kinh doanh của Minh Phụng là đã cung cấp trong thực tế kinh nghiệm về mô hình “công ty mẹ – công ty con” khá hoàn chỉnh, mô hình mà sau đó ít lâu nước ta vận dụng.
Còn việc Minh Phụng cùng cán bộ ngân hàng tự định giá tài sản thế chấp, phải chăng từ đây đã hình thành cơ chế thỏa thuận về giá trị tài sản thế chấp giữa tổ chức tín dụng và bên thế chấp, trao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của tổ chức tín dụng mà hiện đang được các ngân hàng thương mại áp dụng?
Vũng Tàu – miền đất dữ
Có thể nói không ngoa rằng, có thời kỳ hầu như két sắt của các ngân hàng thương mại lớn nhất của Việt Nam đã hoàn toàn trống rỗng, bởi một phần vốn khổng lồ đã được Minh Phụng ném hết xuống các cánh đồng hoang vu khu Chí Linh, Vũng Tàu, các bãi sình lầy ở Thủ Đức hoặc trong các khu kho xưởng mênh mông tỉnh Sông Bé cũ.
Chả thế mà gần đây, khi tổng kết công tác xử lý nợ tồn đọng, Ngân hàng Công thương Việt Nam – đơn vị thiệt hại lớn nhất trong vụ án Minh Phụng – Epco, đã tự đánh giá thiệt hại trong vụ án làm ngân hàng này rơi vào tình trạng “phá sản về kỹ thuật”(!).
Dù bị coi là rất nóng vội, phiêu lưu nhưng không thể phủ nhận tầm nhìn khá xa, định hướng mang tính chiến lược của Minh Phụng khi đầu tư vào bất động sản tại các khu vực trên.
Thực tế khi xử lý tài sản thế chấp sau này cho thấy, các danh mục tài sản thế chấp là nhà xưởng, kho tàng tại các khu công nghiệp đều có giá khá cao, với thời gian thuê khoảng 40-50 năm, chỉ tính riêng tiền khai thác có ngân hàng đã thu được hàng trăm tỷ đồng.
Đối với tài sản là biệt thự, văn phòng, nhà xưởng tại khu vực TP HCM, phần lớn giá bán thực tế đều cao hơn rất nhiều so với giá Tòa án định khi xét xử.
Riêng đối với các lô đất mà Minh Phụng đã lập các dự án tại khu vực Thủ Đức trước đây (nay thuộc quận 2), theo quy hoạch của TP HCM, hầu hết số này nằm ở các vị trí rất đắc địa, nếu được triển khai đầy đủ theo các dự án khả thi, thì lợi nhuận chắc chắn sẽ rất lớn.
Chẳng thế mà có ngân hàng được Tòa án giao cho một số lô đất tại khu vực quận 2, TP HCM, chưa cần phải triển khai xây dựng dự án, cũng không cần đầu tư hạ tầng, qua phiên đấu giá một lô thôi đã thu đủ toàn bộ số nợ trên 15 triệu USD, ngoài ra đơn vị này còn dư ra được số tiền và tài sản trị giá cả chục triệu USD!
Nếu số BĐS Minh Phụng đầu tư tại khu vực TP HCM và tỉnh Bình Dương được coi là rất thành công, thì ngược lại, việc đầu tư vào vùng Bà Rịa – Vũng Tàu thực sự trở thành thảm họa.
Khi xét xử vụ án, để đảm bảo thu hồi số nợ của Minh Phụng, riêng tại địa bàn tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, Tòa án đã giao cho các ngân hàng hàng trăm đơn vị tài sản gồm các khu biệt thự, nhà ở, văn phòng, kho tàng và trên 2,6 triệum2 đất chuyên dùng…
Quá trình xử lý tài sản thế chấp khu vực này của các ngân hàng đều rất chật vật, ngoài số danh mục là nhà ở, văn phòng, biệt thự đã bán được, số đất chuyên dùng bán rất chậm, thậm chí có ngân hàng qua gần chục năm phải ôm hơn 1 triệum2 đất chuyên dùng mà không sao “tiêu hóa” nổi.
Nhiều báo chí đưa tin cho rằng: Các lô đất của Minh Phụng tại khu vực TP Vũng Tàu trị giá mấy ngàn tỷ đồng, nhưng các ngân hàng bán rẻ như cho(?). Mặc dù các trường hợp ngân hàng sai sót trong xử lý tài sản thế chấp mà Tòa án giao trong vụ Minh Phụng – Epco không phải là hiếm, nhưng thực tế việc xử lý số tài sản này không phải “dễ xơi” như nhiều người nghĩ.
Rất nhiều lô đất được định giá xong thông báo không có người mua, hơn nữa, với diện tích quá lớn như vậy, việc sử dụng phải theo đúng quy hoạch của địa phương, đồng thời hầu hết các lô đất vẫn là đất nông nghiệp chưa chuyển đổi mục đích sử dụng nên cần có sự đầu tư rất lớn về cơ sở hạ tầng (quy hoạch đường giao thông, điện, nước, công trình công cộng v.v…), không thể “tính cua trong lỗ” theo kiểu chỉ việc chia lô bán nền là có thể thu lời lớn như các đầu nậu đất vẫn làm.
Thống kê cho thấy, số tài sản thế chấp của Minh Phụng tại khu vực Bà Rịa – Vũng Tàu giá bán được cao hơn từ 1,3 đến hơn 2 lần so với giá Tòa án đã định khi xét xử, tuy nhiên, so với giá thẩm định của ngân hàng khi cho vay thì giá bán được chỉ xấp xỉ bằng 25 đến 43%.
Như vậy, dù bán hết số đất này cũng không thể nào thu hồi được khoản vay nên có thể khẳng định các dự án của Minh Phụng tại khu vực Bà Rịa – Vũng Tàu phần lớn là thất bại.
Chính vì vậy, để đỡ gánh nặng cho các ngân hàng, cuối năm 2005, Thủ tướng Chính phủ đã phải quyết định cho phép UBND tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu và ngân hàng nhận thế chấp thỏa thuận việc chuyển giao cho địa phương quản lý, sử dụng trên 1,3 triệu m2 đất và thanh toán lại cho ngân hàng theo giá trị thẩm định, giúp ngân hàng thu hồi nợ.
Vậy, tại sao Minh Phụng lại dốc gần như hết tâm lực vào vùng đất này đến như vậy?
Không phải ngẫu nhiên khi Minh Phụng lại chọn Bà Rịa – Vũng Tàu là miền đất hứa và đổ tiền của vào để rồi ôm hận. Nếu ta nhớ lại đầu những năm 90 của thế kỷ trước, Bà Rịa – Vũng Tàu đã được chọn là vùng trọng điểm về kinh tế phía Nam, với định hướng phát triển ngành Dầu khí, khi đó, theo quy hoạch, TP Vũng Tàu sẽ là trung tâm của ngành Công nghiệp hóa dầu với một nhà máy lọc dầu rất hiện đại dự kiến sẽ xây dựng tại khu vực xã Long Sơn.
Như vậy, sẽ phải có hàng ngàn doanh nghiệp, hàng vạn con người tập trung ở đây, kéo theo các dịch vụ về ngân hàng, tín dụng, nhà ở, văn phòng, biệt thự v.v… Đón bắt được hướng phát triển này, bằng tất cả khả năng của mình cũng như bằng mọi phương cách, Minh Phụng lao vào đầu cơ đất đai.
Không chỉ những vị trí đẹp nhất trong thành phố, mà cả những vùng đất sình lầy, bãi hoang chưa có người ở trên địa bàn TP Vũng Tàu và các vùng lân cận cũng đều nằm trong kế hoạch phát triển đầy tham vọng của ông chủ Minh Phụng.
Nói một cách khách quan, thực sự Minh Phụng đã in dấu ấn khá đậm nét trong quá trình đô thị hóa ở đây. Những năm 1993-1996, nếu ai đến khu vực TP Vũng Tàu, hẳn dễ dàng nhận thấy sự khởi sắc từng ngày về cảnh quan, kiến trúc đô thị.
Hàng loạt khu biệt thự to đẹp, đầy đủ tiện nghi nhanh chóng mọc lên tại TP Vũng Tàu. Không những thế, cả những “cánh đồng hoang” khu vực Chí Linh, rồi những địa danh: Đồng Sát, Hải Đăng, Long Hải, Phước Tỉnh v.v… một ngày kia đều được gắn với tên Minh Phụng với những dự án hoành tráng.
Tuy nhiên, sự sụp đổ có thể thấy ngay khi quy hoạch có sự thay đổi, khu công nghiệp hóa dầu được chuyển ra Dung Quất (Quảng Ngãi), kế hoạch xây dựng nhà máy lọc dầu tại TP Vũng Tàu chưa biết bao giờ mới thực hiện.
Các cơ hội mà Minh Phụng tưởng như đã đón bắt được, nay vụt qua như ánh sao băng! Kết cục cũng giống như một số đại gia khác đã lao vào đất đai tại Vũng Tàu như Ba Vinh, Phạm Huy Phước,… Minh Phụng cũng đã phải bỏ mình tại miền đất này.
Có người cho rằng Vũng Tàu quả là miền đất dữ, có ý kiến cho rằng Minh Phụng sụp đổ do sai lầm quá nóng vội, đi trước thời cuộc, nhưng những gì cho ta thấy ở trên, có thể sẽ khách quan hơn, nếu ta nhận xét thất bại của Minh Phụng một phần rất lớn từ rủi ro.
Những kinh nghiệm
Do tính chất đặc biệt và mức độ ảnh hưởng về chính trị, kinh tế – xã hội của vụ án rất nghiêm trọng, sau khi vụ án Minh Phụng – Epco được xét xử, Thủ tướng Chính phủ đã ra Quyết định số 56/QĐ-TTg ngày 15/1/2002 thành lập Ban Chỉ đạo thi hành án phần tài sản vụ án Minh Phụng – Epco, do Phó Thủ tướng Thường trực Nguyễn Tấn Dũng (nay là Thủ tướng Chính phủ) làm Trưởng ban, nhằm chỉ đạo thống nhất, bảo đảm thi hành khẩn trương, hạn chế đến mức thấp nhất thiệt hại về tài sản cho Nhà nước và công dân, đây cũng là Ban chỉ đạo đầu tiên được thành lập tại Trung ương nhằm chỉ đạo đối với công tác thi hành án dân sự.
Sau hơn 5 năm tổ chức thi hành án, bằng nhiều biện pháp quyết liệt, việc thi hành phần tài sản vụ án Minh Phụng – Epco đã đạt kết quả rất khả quan.
Theo báo cáo tổng kết của Ban chỉ đạo thi hành án phần tài sản vụ án Minh Phụng – Epco, trong 6 ngân hàng được thi hành trong vụ án, đã có 3 đơn vị thu hồi đạt trên 100% số nợ và còn dư chuyển đơn vị khác (trong đó có trường hợp 1 ngân hàng thu đủ số nợ trên 15 triệu USD và còn dư số tiền rất lớn đã nêu); 1 đơn vị cơ bản thu gần đủ toàn bộ số nợ.
Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam dự tính sẽ thu đủ toàn bộ 100% số nợ của nhóm Minh Phụng và còn dư; số nợ thiếu không thể thu hồi được thuộc nhóm Epco.
Riêng Ngân hàng Công thương Việt Nam là đơn vị thiệt hại lớn nhất, tổng thu nợ đạt trên 42% (khoảng trên 2.400 tỷ đồng), theo ước tính, nếu xử lý hết số tài sản và chuyển phần dư của các ngân hàng khác sang, Ngân hàng Công thương Việt Nam có thể thu hồi được xấp xỉ 50% số nợ.
Qua kết quả này, có thể nói chưa có vụ án nào mà việc khắc phục hậu quả thiệt hại lại có hiệu quả như vụ án Minh Phụng – Epco. Mặc dù vậy, số nợ không thể thu hồi được của cả hai nhóm Minh Phụng và Epco tại Ngân hàng Công thương Việt Nam vẫn lên tới hàng ngàn tỷ đồng.
Quá trình xét xử và thi hành vụ án này, các ngành chức năng cũng đã đúc rút nhiều kinh nghiệm quý báu. Trước hết, vai trò can thiệp của Nhà nước vào các vụ “đổ bể” quy mô lớn có ảnh hưởng xấu về kinh tế – xã hội được xem là một trong những bài học xương máu.
Vụ án Epco – Minh Phụng xảy ra ngoài các hành vi vi phạm pháp luật của các cá nhân thuộc hai nhóm Minh Phụng và Epco, của một số cán bộ trong ngành Ngân hàng, thì còn những nguyên nhân khách quan khác, đó là sự ảnh hưởng trực tiếp từ cuộc khủng hoảng tài chính – tiền tệ tại châu Á (1997-1999).
Trong điều kiện nền kinh tế đang ở giai đoạn đầu chuyển đổi sang cơ chế thị trường, hệ thống pháp luật chưa hoàn chỉnh, đặc biệt là pháp luật về đất đai, tài chính – tín dụng. Các ngân hàng thương mại Nhà nước còn thiếu kinh nghiệm, doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế vẫn đang trong giai đoạn hình thành, phát triển, thiếu vốn, năng lực tài chính và khả năng cạnh tranh rất thấp, mức độ rủi ro cao.
Thêm vào đó, do sự điều chỉnh kế hoạch xây dựng các vùng kinh tế, các dự án trọng điểm của Nhà nước và việc thay đổi quy hoạch đất đai của các địa phương, đã ảnh hưởng nghiêm trọng tới việc triển khai thực hiện dự án sản xuất – kinh doanh của nhiều doanh nghiệp.
Trong bối cảnh đó, nếu chúng ta có cơ chế giúp các doanh nghiệp xử lý rủi ro, có sự can thiệp kịp thời bằng các công cụ pháp lý và kinh tế, có lẽ sự thiệt hại và tác động xấu về kinh tế – xã hội sẽ được giảm thiểu tối đa.
Nhìn lại vụ án Minh Phụng – Epco, khi vụ việc đổ bể, dường như các cơ quan chức năng mới chỉ tập trung vào việc xử lý sao cho thật nghiêm về hình sự đối với các cá nhân và giải quyết việc thu hồi nợ của các ngân hàng theo trình tự tố tụng mà thôi, hầu như chúng ta chưa có sự can thiệp nào bằng các biện pháp kinh tế, chẳng hạn khoanh nợ, giảm nợ, khôi phục kinh doanh, áp dụng các giải pháp đặc biệt tạo điều kiện cho các doanh nghiệp của các bị can tiếp tục sản xuất kinh doanh, qua đó thu hồi nợ có hiệu quả hơn
Kết quả định giá khối tài sản của 2 nhóm Minh Phụng và Epco từng gây nên cuộc tranh luận rất gay gắt trong quá trình tố tụng, chắc nhiều người còn nhớ hình ảnh vị luật sư bảo vệ quyền lợi cho bị cáo đã rơi lệ cay đắng ngay trong phiên tòa khi nghe kết quả thẩm định giá tài sản, vì “mỗi mét vuông đất được tính bằng giá ba cây kem”(?).
Nếu so sánh với nhiều nước trên thế giới có thể thấy, trong điều kiện thị trường cạnh tranh hết sức khốc liệt, sự phá sản của các doanh nghiệp là chuyện cơm bữa hằng ngày, ngay cả các tập đoàn kinh tế lớn cũng không phải là ngoại lệ, chẳng hạn như các trường hợp phá sản của Tập đoàn Enron (Mỹ), Tập đoàn Daewoo (Hàn Quốc)…
Trong các vụ việc này vai trò can thiệp của Nhà nước bằng các công cụ kinh tế, thậm chí về hành chính là rất quan trọng và hiệu quả.
Hẳn chúng ta còn nhớ vụ Tập đoàn Năng lượng Enron (Mỹ) tuyên bố phá sản cuối năm 2001. Theo luật về phá sản của Mỹ, bất kỳ công ty nào của Mỹ tuyên bố phá sản đúng trình tự pháp luật đều sẽ được Chính phủ giúp đỡ.
Việc phá sản của Enron cũng mang tính chất hình sự, Chủ tịch HĐQT của Enron là Kenneth Lay và các nhân vật chủ chốt của tập đoàn này đều phải hầu tòa.
Nhưng riêng đối với doanh nghiệp, để tránh cho thị trường chứng khoán Mỹ khỏi cơn chao đảo, đồng thời giúp hơn 30.000 nhân viên của Tập đoàn Enron thoát cảnh “đứng đường”, Chính phủ Mỹ đã trích ngân khố mua lại toàn bộ tập đoàn này, nhờ đó mà hiện Enron đã hoàn toàn hồi phục và phát triển, vững bước cùng sánh vai với các đại gia ngành năng lượng Mỹ và thế giới.
Mọi sự so sánh đều là khập khễnh, có thể các cơ quan Nhà nước của Việt Nam chưa đủ tiềm lực như Mỹ, để có thể hào phóng bỏ ra khoản tiền lớn để mua lại một doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản, tuy nhiên, trong hoàn cảnh của Việt Nam, các hình thức hỗ trợ hoặc tác động gián tiếp khác cũng có tác động tích cực không kém.
Chẳng hạn, sau vụ án Minh Phụng – Epco, việc xử lý nợ của Công ty Huy Hoàng (doanh nghiệp này cũng lâm vào tình trạng mất khả năng thanh toán nợ và có tính chất tương tự như Minh Phụng, nhưng tất nhiên số nợ nhỏ hơn nhiều), đã tỏ ra rất hiệu quả, không chỉ thu hồi đủ nợ mà còn tránh phải xử lý vụ việc theo trình tự tố tụng, ngăn ngừa những tác động xấu về kinh tế – xã hội có thể xảy ra nếu phải xử lý vụ việc theo phương thức này.
Nhưng bài học đắt giá qua vụ án này không chỉ dừng lại ở vai trò việc can thiệp của Nhà nước, ở phạm vi hẹp hơn chúng tôi cho rằng việc áp dụng pháp luật trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án các vụ án kinh tế lớn, thậm chí các cơ chế được coi là “đặc biệt” khi Tòa án vận dụng để xử lý vụ án Minh Phụng – Epco cũng cần được nghiêm túc xem xét, rút kinh nghiệm.
Nguyên tắc tố tụng từ trước tới nay, khi xét xử các vụ án hình sự, Tòa án có quyền giải quyết đồng thời về dân sự, hầu hết các vụ án hình sự đều áp dụng nguyên tắc xử lý này.
Bên cạnh vụ án Minh Phụng – Epco có thể kể rất nhiều vụ án kinh tế có tính chất phức tạp như: “Nước hoa Thanh Hương”, “Tamexco”, Mai Văn Huy” và sau này là các vụ án “Ngân hàng Việt Hoa”, “Ngân hàng Nam Đô” v.v…
Việc áp dụng quy định về giải quyết trách nhiệm dân sự trong các vụ án hình sự có ưu điểm là rút ngắn được tiến trình tố tụng, làm giảm chi phí về tiền bạc, công sức, thời gian của các cơ quan tiến hành tố tụng cũng như các đương sự.
Tuy nhiên, trong các vụ án lớn, phức tạp, nếu chỉ vì muốn đáp ứng yêu cầu về “tiến độ” đưa ra xét xử đối với các bị cáo, mà phải hoàn tất toàn bộ hồ sơ vụ án để giải quyết phần tài sản và trách nhiệm dân sự ngay trong vụ án hình sự, thì nhiều khi những hậu quả xấu về pháp lý còn nguy hại hơn rất nhiều, điều này có thể thấy rất rõ ngay trong vụ án Minh Phụng – Epco.
Một vụ án mà bên cạnh tính chất đặc biệt nghiêm trọng như chúng tôi đã nêu, tổng số nợ phải thu nếu quy đổi trị giá vào thời điểm đó trên 500 triệu USD, với hàng trăm hợp đồng, khế ước, hằng trăm đương sự với vô số mối quan hệ phức tạp về dân sự, kinh doanh – thương mại, tài chính – tín dụng, đất đai… Vậy mà các Thẩm phán hình sự vừa xét xử về hình sự vừa phải giải quyết ngay về dân sự, chứ không tách riêng ra để giải quyết bằng vụ dân sự khác.
Chính vì lẽ đó phần quyết định về tài sản có rất nhiều sai sót. Ví như tài sản giao cho ngân hàng xử lý có cả phần tài sản (quyền sử dụng đất) chồng lấn diện tích, ranh giới với tài sản của vụ án lớn khác; hoặc có doanh nghiệp phải dở khóc dở mếu vì nếu chiểu theo phán quyết của Tòa phải trả nợ đến hai lần, vì Tòa “quên” khoản nợ đó đã được cấn trừ tài sản, rồi hàng loạt các trường hợp tài sản đã được tuyên xử lý nhưng trong quá trình thi hành án, TAND Tối cao phải ra quyết định Giám đốc thẩm và tái thẩm tuyên hủy.
Và cho đến thời điểm hiện tại, khi phần quyết định về tài sản trong vụ án Minh Phụng – Epco đã có hiệu lực thi hành đã hơn bảy năm, vẫn có nhiều khoản tuyên về tài sản đang được xem xét lại.
Trớ trêu hơn, có trường hợp phần tuyên của Tòa về trách nhiệm thu hồi khoản đầu tư của một doanh nghiệp có độ dài không quá ba dòng, nhưng Tòa án đã có tới bốn, năm lần ra văn bản giải thích nội dung thi hành, văn bản giải thích sau lại “đá” văn bản trước, làm cho cơ quan thi hành án dân sự cũng như các bên có nghĩa vụ chẳng biết đâu mà lần.
Thậm chí như Báo Lao động bình luận, theo văn bản giải thích trước thì chấp hành viên, thủ trưởng cơ quan thi hành án sẽ phải “xộ khám”, nhưng đến văn bản giải thích sau, thì sẽ lại kẻ khác (phía doanh nghiệp) có nguy cơ đi tù(!?).
Kể ra điều này, chúng tôi hoàn toàn không có ý đánh giá thấp cơ quan xét xử và các Thẩm phán, mà chỉ muốn lưu ý rằng, dù xuất phát từ tính chất hình sự hay tranh chấp dân sự thông thường, các quan hệ tài sản mang những đặc trưng riêng và hết sức phức tạp, nhất là các quan hệ về tài chính – tín dụng, kinh doanh, thương mại hay đất đai, đòi hỏi phải có thời gian và thủ tục giải quyết riêng.
Hơn nữa, việc cân nhắc, đánh giá chứng cứ để đi đến quyết định về trách nhiệm dân sự hoàn toàn khác với đánh giá chứng cứ về hình sự nhằm định tội và lượng hình. Với những vụ án có quy mô và tính chất như Minh Phụng – Epco, nếu giải quyết cả về hình sự và dân sự trong một vụ án, thì có tài ba đến mấy, người cầm cân nảy mực cũng khó tránh được sai lầm.
So sánh với pháp luật tố tụng của nhiều nước, thì hầu như tất cả các quốc gia đều có quy định phần bồi thường thiệt hại hoặc trách nhiệm tài sản trong vụ án hình sự, các bên phải khởi kiện bằng vụ kiện dân sự khác, chứ không giải quyết ngay trong bản án hình sự.
Về vấn đề định giá tài sản và giao tài sản để cấn trừ nợ trong vụ án Minh Phụng – Epco, đây được coi như một án lệ tiêu biểu, một “cơ chế xử lý đặc biệt” được Tòa án áp dụng riêng trong vụ án này.
Như chúng tôi đã đề cập, toàn bộ khối tài sản của 2 nhóm Minh Phụng và Epco đã được các cơ quan chức năng định giá rất cẩn trọng (có cả hội đồng với đủ đại diện các cơ quan có thẩm quyền).
Kết quả định giá này đã từng gây nên cuộc tranh luận rất gay gắt trong quá trình tố tụng, chắc hẳn nhiều người còn nhớ hình ảnh vị luật sư bảo vệ quyền lợi cho bị cáo đã rơi lệ cay đắng ngay trong phiên tòa khi nghe kết quả thẩm định giá tài sản, vì “mỗi mét vuông đất được tính bằng giá ba cây kem”(?).
Nhưng dù có thế nào, về mặt hình sự kết quả thẩm định giá là một trong các chứng cứ quan trọng để định tội.
Cụ thể là đối với các bị cáo thuộc hai nhóm Minh Phụng và Epco, cùng các hành vi về mặt khách quan khác, giá trị khối tài sản thế chấp theo kết quả định giá thấp hơn rất nhiều so với tổng khoản nợ vay ngân hàng, là một trong các căn cứ kết án bị cáo phạm tội “lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.
Về dân sự, Tòa án cũng căn cứ giá trị tài sản để áp dụng phương thức xử lý nợ của hai nhóm Minh Phụng và Epco.
Theo đó, tổng số nợ theo các hợp đồng tín dụng, hợp đồng bảo lãnh hoặc khoản nợ vay khác của 6 ngân hàng được cấn trừ bằng giá trị tài sản thế chấp trên 2.232 tỷ đồng. Số nợ còn lại (khoảng trên 4.000 tỷ đồng) bản án xác định “là số nợ còn thiếu sau khi cấn trừ tài sản thế chấp”, do vậy các bị cáo và các doanh nghiệp của các bị cáo phải bồi thường.
Điều đặc biệt là trong vụ án này, Tòa án đã tuyên giao toàn bộ số tài sản thế chấp cho các ngân hàng để quản lý, khai thác, phát mại thu hồi nợ.
Xin không bình luận về phần hình sự, riêng phần dân sự qua thực tiễn tổ chức thi hành án, quyết định của Tòa án về xử lý cấn trừ nợ và giao xử lý tài sản như vừa nêu, chúng tôi thấy rất đáng bàn.
Một là, quyết định của Tòa án cấn trừ nợ bằng giá trị tài sản thẩm định tại thời điểm xét xử vụ án, theo chúng tôi xét trên cả phương diện lý luận lẫn thực tiễn, là điều rất bất hợp lý.
Có lẽ tất cả những người có kiến thức tối thiểu về kinh tế cũng đều sẽ ngạc nhiên là tại sao cả khối tài sản khổng lồ với trên 390 danh mục đất đai, nhà xưởng, kho tàng, biệt thự, văn phòng, v.v lại được Tòa án quy ra bằng một lượng tiền mặt cố định để cấn trừ nợ, hoàn toàn không tính đến những yếu tố biến động về giá trị, không đặt tài sản trong mối quan hệ thị trường, giá trị về khai thác, sử dụng và các giá trị gia tăng khác v.v và v.v.
Nói một cách nôm na, đến thế kỷ XXI, dường như Tòa án vẫn áp dụng phương thức cổ điển nhất của loài người về trao đổi giá trị, mà theo đó, hàng trăm danh mục bất động sản kể trên cũng chẳng khác gì những chiếc vỏ sò mà người nguyên thủy đã từng dùng để trao đổi hàng vạn năm về trước!
Lẽ ra, trường hợp này, trên cơ sở xác định tổng số nợ, Tòa án phải tuyên phương thức thu hồi nợ căn cứ vào giá trị thực tế tài sản thời điểm xử lý, cộng với giá trị khai thác, sử dụng v.v thì mới bảo đảm quyền lợi cho cả hai bên (các ngân hàng và hai nhóm bị cáo).
Author: Nguyễn Công Long
http://ca.cand.com.vn/vi-VN/thoisuxahoi/phongsughichep/2007/12/120178.cand?Page=3
Monday, March 12, 2012
Làm ăn bất chính sinh ra những kẻ ngông đốt tiền tỉ
Làm ăn bất chính sinh ra những kẻ ngông đốt tiền tỉ
(Đời sống) - "Chúng ta chưa có những đại gia thực sự, và nếu có những người tự nhận mình là đại gia thì họ không phải là doanh nhân. Bởi kinh doanh chân chính thì không thể có tiền nhiều như thế được trong điều kiện của xã hội chúng ta".. - Ông Nguyễn Trần Bạt, Tổng Giám đốc Công ty Tư vấn Đầu tư InvestConsult Group khẳng định với Phunutoday như vậy xung quanh lùm xùm việc tổ chức đám cưới siêu khủng của một số nữ đại gia.
TIN LIÊN QUAN |
---|
Chỉ là những hư hỏng trong cuộc sống!
PV: - Hiện dư luận đang xôn xao về sự kiện các nữ đại gia ở vùng đất Tây Đô, Hà Tĩnh chơi ngông bằng việc mượn máy bay bầu Đức để rước dâu, tặng quà cho con bằng nhà trăm tỷ, tổ chức siêu đám cưới với chi phí đến 50 tỷ đồng. Là một doanh nhân thành đạt, ông có nhận xét gì về hiện tượng này?
Ông Nguyễn Trần Bạt: - Tôi không muốn phát biểu với tư cách là một doanh nhân thành đạt, tôi cũng không phải là một doanh nhân thành đạt theo bất kỳ một định nghĩa nào.
Bởi suy cho cùng thuật ngữ doanh nhân thành đạt là thuật ngữ của báo chí, không phải thuật ngữ của giới kinh doanh.
Bởi suy cho cùng thuật ngữ doanh nhân thành đạt là thuật ngữ của báo chí, không phải thuật ngữ của giới kinh doanh.
"Doanh nhân hơn ai hết biết rất rõ sự vất vả của việc kiếm tiền, biết rõ giá trị của đồng tiền, và không có một người kinh doanh chân chính nào có được tiền một cách dễ dàng và phung phí như thế"... |
"Con người có nghĩa vụ trước hết với mình là giữ cho mình nguyên vẹn là một con người. Đấy là thẩm mỹ chính trị của tôi về cái gọi là kinh doanh hoặc bất kỳ cái gì"... - Ông Nguyễn Trần Bạt - |
Báo chí đã vẽ ra một đội ngũ doanh nhân và một số tiêu chuẩn để hình thành ra họ, cho nên mới có một sự chú ý đến mức không tỉnh táo đến các hiện tượng giống như vừa đề cập tới.
Doanh nhân là doanh nhân, doanh nhân là một người lính ngoài mặt trận, có thể thành anh hùng và có thể thành liệt sĩ.
Khi chúng ta để ý đến họ với tư cách là một người có thể thành anh hùng thì đôi khi chúng ta nhìn thấy trước hình ảnh anh hùng của họ.
Nhưng nếu chúng ta quan tâm đến họ với tư cách là một kẻ rất có thể trở thành liệt sĩ thì chúng ta sẽ thấy bao nhiêu rủi ro xung quanh họ.
Cho nên hiện tượng chơi ngông hoặc làm ầm ĩ của một vài người nó không phải và không thuộc về giới doanh nhân. Bởi kinh doanh trong điều kiện của nền kinh tế thế giới vào giai đoạn này để sống sót được đã khó. Báo chí đã đưa ra rất nhiều con số thống kê về mấy chục ngàn doanh nghiệp buộc phải đóng cửa. Ngay từ đầu năm đến giờ Hà Nội cũng có mấy trăm công ty phải đóng cửa.
Không nên gán cho giới doanh nhân những phẩm hạnh hoặc những hành vi thỉnh thoảng mới có mà xã hội cho là xấu. Kinh doanh là phương tiện để những người có những biểu hiện xấu thể hiện chứ không phải là phẩm chất. Doanh nhân hơn ai hết biết rất rõ sự vất vả của việc kiếm tiền, biết rõ giá trị của đồng tiền, và không có một người kinh doanh chân chính nào có được tiền một cách dễ dàng và phung phí như thế.
Tôi chưa bao giờ nhận tôi là một nhà kinh doanh. Tôi kinh doanh vì cuộc sống của cá nhân tôi, của vợ tôi, con tôi, và khi có tiền rồi thì tôi kinh doanh tiếp tục vì còn nhiều đồng nghiệp của tôi chưa có nhà cửa, chưa có xe pháo. Kinh doanh là phương tiện để cấu tạo ra các điều kiện để sống chứ không phải là cuộc sống. Tôi không xem kinh doanh là cuộc sống.
Và tôi là một con người, dù làm bất cứ điều gì, tiến hành bất cứ loại hành vi gì và trở thành một thứ gì trong những chặng khác nhau của cuộc đời thì tôi đều vì con người cả. Không phải vì con người với tư cách là phấn đấu vì một đối tượng bên ngoài tôi, mà là giữ gìn phẩm hạnh của tôi như một con người. Con người có nghĩa vụ trước hết với mình là giữ cho mình nguyên vẹn là một con người. Đấy là thẩm mỹ chính trị của tôi về cái gọi là kinh doanh hoặc bất kỳ cái gì.
PV: - Vậy có thể gọi đó là kiểu đốt tiền chơi ngông của một số đại gia?
Ông Nguyễn Trần Bạt: - Chúng ta chưa có những đại gia thực sự, và nếu có những người tự nhận mình là đại gia thì họ không phải là doanh nhân. Bởi kinh doanh chân chính thì không thể có tiền nhiều như thế được trong điều kiện của xã hội chúng ta. Tôi rất buồn về việc báo chí, dư luận ghép vào trong đội ngũ những người kinh doanh thông thường những trường hợp mà các bạn gọi là đại gia.
Rất khó để trở thành đại gia. Đại gia là những thiên tài, mà trong xã hội của chúng ta thì khó có thể tìm thấy thiên tài nào như vậy. Các "đại gia" mà dư luận và báo chí vẫn gọi hiện nay là kết quả của một phương pháp khác, một loại hình khác, không thể gọi là kinh doanh được.
Tôi nghĩ tất cả những chuyện ầm ĩ mà chúng ta vừa đề cập là những chuyện đau lòng của cuộc sống, đấy là những ví dụ hư hỏng mà cuộc sống của chúng ta có.
Đốt tiền chơi trội: Không phải hành vi của con người!
![]() |
"Miền tây Nam Bộ như trường hợp thứ nhất và miền tây Hà Tĩnh như trường hợp thứ hai, nơi ấy đẻ ra những bằng chứng, những con người vĩ đại lắm, đừng làm nhục miền quê ấy bằng cách dùng nó để giải thích cho những hành vi như thế"... |
PV: - Họ nói rằng việc tổ chức đám cưới khủng như vậy là vì thương miền quê nghèo quanh năm không có được một sự hưởng thụ nào…
Ông Nguyễn Trần Bạt: - Miền quê nghèo ở Hà Tĩnh ấy đã đẻ ra Nguyễn Du vĩ đại, đẻ ra những anh hùng như Phan Đình Phùng, gần đây là Hà Huy Tập, Trần Phú. Miền quê ấy không tệ hại đến mức đẻ ra những trường hợp như vậy.
Đừng lấy bất kỳ cái gì để giải thích cho những hiện tượng như vậy. Miền tây Nam Bộ như trường hợp thứ nhất và miền tây Hà Tĩnh như trường hợp thứ hai, nơi ấy đẻ ra những bằng chứng, những con người vĩ đại lắm, đừng làm nhục miền quê ấy bằng cách dùng nó để giải thích cho những hành vi như thế.
PV: - Vậy với ông như thế nào được cho là một đại gia thực sự?
Ông Nguyễn Trần Bạt: - Đại gia thực sự là những người kinh doanh thành công, những người từng bước cùng với thời gian, cùng với xã hội xây dựng nên những nền công nghiệp, những đế chế kinh doanh khổng lồ, đem lại một lợi ích rất khó đo đếm cho xã hội.
Một đại gia thực sự là người không hề để ý đến mình, họ không có mục tiêu để trở thành đại gia. Còn một người thiết kế kích thước đại gia của mình trước khi trở thành đại gia thì đấy lại là chuyện khác.
Tức là anh muốn có kích thước. Nếu là một người thông thường, nếu là những thanh niên lành mạnh thì đều có bạn bè, có cộng đồng của mình. Kẻ bay lên trên đầu cộng đồng của mình, kẻ nhảy múa lên trên thân phận của bạn hữu của mình liệu có lành mạnh không? Chắc chắn là không.
Không ai tự nhận mình là người có đạo đức nếu sống trong những điều kiện vượt quá sức chịu đựng của xã hội xung quanh mình. Một món quà mà mình tiêu, một bữa ăn mà mình trả tiền nó lớn bằng mức sống hàng tháng của cả một gia đình hoặc thậm chí hàng năm chẳng hạn, những thứ đó được gọi là vô nhân đạo.
Chúng ta không nên mất thì giờ để bình luận về những trường hợp mà nó vượt ra khỏi ranh giới con người, khỏi khuôn khổ con người. Tôi không xem những hành vi chơi trội ghê gớm như vậy là hành vi của con người, đó là hành vi phi con người, thậm chí là hành vi chống lại con người.
Chống lại con người là làm cho con người xấu đi, làm cho con người nhỏ bé đi, trở nên quằn quại trước các chi tiêu của mình, khiếp nhược trước sự giàu có và hoang phí của mình.
Những cái đó làm cho con người bé tí đi, làm cho con người run sợ, không dám tự tin, không dám hành động, đặc biệt là không cố gắng được nữa, bởi cố mấy cũng không thể bằng nó.
Tất cả những ai sống trên con người, sống một cách đe nẹt, sống một cách đè bẹp những trạng thái yên ổn thông thường của con người là kẻ vi phạm nhân quyền. Người ta không bắt kẻ đó vào tù được, nhưng người ta có thể căm ghét kẻ đó. Tất cả những người lành mạnh đều phải cố gắng sống sao cho không tạo ra sự căm ghét như vậy của những người xung quanh mình.
Những bài báo của các bạn đang chiếu cho thiên hạ thấy thêm rằng họ sống đến mức gặt hái được sự căm ghét của toàn xã hội. Tôi rất ghê sợ những chuyện như thế này vì nó rất phi con người.
Tham nhũng, bất chính sinh ra những kẻ ngông nghênh như vậy
![]() |
"Họ thay thế phông văn hóa như một phương tiện để tổ chức mối giao lưu, quan hệ sống giữa con người với nhau bằng những phương tiện có thể đe nẹt, có thể bắt nạt, có thể đè bẹp các giá trị tinh thần của con người"... |
PV: - Vậy theo ông, hành động mượn máy bay rước dâu hoặc chi cho con những ngôi nhà hơn trăm tỷ đó có được gọi là hành động chơi trội ghê gớm, phi con người và đó có là thói chơi trội của những kẻ trưởng giả học làm sang hay những người mà dân ta quen gọi là trọc phú?
Ông Nguyễn Trần Bạt: - Chỉ có công an mới trả lời được câu hỏi như vậy. Câu hỏi bạn đề nghị tôi trả lời liên quan đến sự yên ổn cá nhân của hai trường hợp. Tôi rất không muốn trả lời về hai trường hợp cụ thể này, bởi tôi không thể dành cho những trường hợp này sự chú ý đặc biệt nào.
Vì không có sự chú ý nên trả lời về họ sẽ vô tình đem lại những sự thiệt thòi mà đáng ra không nên có. Tôi không thích chuyện ấy, và tôi cũng không thích báo chí quá chú ý đến những trường hợp như thế.
Chúng ta có rất nhiều tấm gương tốt, chúng ta có những doanh nhân rất vất vả, có những sự nghiệp rất chắc chắn, đã bắt đầu có những sản phẩm có giá trị phục vụ và có giá trị để tạo ra một nền kinh tế Việt Nam tử tế. Chúng ta nên chú ý đến những chuyện ấy. Còn những thứ như kia không đáng để ý.
Đừng để ý đến số tiền vì số tiền không phản ánh sự giàu có. Người ta có thể đi vay để tiêu. Tôi tin chắc là không có một thanh niên nào thấy hạnh phúc khi ở trong một căn nhà mà họ biết rõ nguồn gốc của nó là bất minh đối với tất cả các tiêu chuẩn đạo đức. Còn nếu họ cảm thấy hạnh phúc thì càng không nên để ý nữa.
Tôi khuyên báo chí không nên để ý đến những chuyện này. Chúng ta đừng tiếp tay cho những kẻ ngông nghênh như vậy để biểu dương trước dư luận xã hội về một sự ngông nghênh không nên có. Lên án cũng là một sự biểu dương, bởi người ta cần có tin đồn, cần có tiếng tăm và cần có huyền thoại.
PV: - Đâu là nguyên nhân xuất hiện của những kẻ ngông nghênh như vậy, thưa ông?
Ông Nguyễn Trần Bạt: - Nó ở nhiều chỗ, nhưng đại thể là tham nhũng và làm ăn bất chính. Hiện trạng xã hội chúng ta đang có không ai có thể làm ra quá nhiều tiền được bằng cách thức tương đối lương thiện.
PV: - Vậy ông nghĩ gì với ý kiến cho rằng: những kẻ không có tiền mới có thể chê bai họ là nhà giàu chơi ngông như thế?
Ông Nguyễn Trần Bạt: - Trong một buổi giao lưu với sinh viên của trường Đại học Kinh tế, khi trả lời câu hỏi của sinh viên tôi đã nói: Chúng ta phấn đấu sống và làm việc như thế nào để tiền là sản phẩm phụ của cuộc sống của chúng ta. Chúng ta phải làm ăn như thế nào để tiền là một tất yếu phụ chứ không phải là một tất yếu chính.
Tôi nghĩ rằng con người nếu sống có lý tưởng, có phẩm hạnh thì nên cố gắng sống như thế. Người ta cho chất độc vào trong sữa, dùng những hóa chất độc hại để làm tươi thức ăn, để làm nạc hóa đàn lợn, tất cả những chuyện như thế đang diễn ra hàng ngày trên thế giới và nó bị lên án một cách toàn cầu.
Những sản phẩm độc hại ấy từ đâu ra? Từ chỗ anh làm tiền bằng mọi giá. Nếu con người có một đòi hỏi có tiền bằng mọi giá và có nhiều tiền bằng mọi giá, cái gì không mua được bằng tiền thì mua được bằng rất nhiều tiền, tức là mua mọi thứ bằng mọi giá thì xã hội chúng ta có phải xã hội con người nữa không?
Và chúng ta còn hứng thú để sống một cách có lý tưởng, sống một cách có tâm hồn, sống một cách có giá trị tinh thần nữa không? Những kẻ chơi ngông như vậy đang đập chết cảm hứng sống của hàng chục triệu con người.
Những kẻ làm tiền bằng mọi giá đang đầu độc nhân loại và làm mất đi sự thanh thản khi uống khi ăn, bởi vì tiềm ẩn trong tất cả những cái có thể uống, có thể ăn là sự độc hại do động cơ làm tiền bằng mọi giá.
Chúng ta ngây thơ, chúng ta đơn giản, chúng ta không có thì giờ để để ý, để suy nghĩ, chúng ta không ngẫm nghĩ và vô tình chúng ta nuốt vào trong người mình, khoác lên cơ thể mình những thứ độc hại là sản phẩm của những kẻ làm tiền bằng mọi giá.
Chỉ có những kẻ như vậy mới kiếm ra tiền một cách dễ dãi trong điều kiện khó khăn hiện nay của nền kinh tế thế giới cũng như nền kinh tế của đất nước mình. Những kẻ đó đang đầu độc không chỉ cả các điều kiện sống mà cả các điều kiện tinh thần của cuộc sống.
Những cô gái ngây thơ có thể lác mắt về xe pháo, về quần áo, về quà tặng của một kẻ lắm tiền, và điều đó đã bẻ gãy rất nhiều những tình yêu vốn dĩ đáng ra phải lành mạnh. Sự kích động những tâm lý không lành mạnh bẻ gãy một cách toàn diện các điều kiện sống.
Bạn bỗng nhiên thấy cậu bạn trai của mình, một người hiền lành lao động chân chính, bất lực trước việc có tiền để đánh đu với những kẻ đi bằng trực thăng. Nếu bạn là một người tốt thì bạn bỗng nhiên thấy thương hại người bạn trai nghèo khổ hoặc không giàu có của mình. Và như vậy chính là những kẻ chơi trội ấy đã nhét thuốc độc vào tình yêu của bạn.
Và tôi cũng không bàn đến phông văn hóa của họ. Bởi vì phông văn hóa của một con người chính là nhân tính của hành vi của họ, hay là tính nhân văn trong đời sống tinh thần của họ, mà sống như thế thì chắc chắn không có tính nhân văn của đời sống. Thế thì bàn đến phông văn hóa làm gì?
Có lẽ họ cũng không quan tâm đến phông văn hóa của họ. Họ thay thế phông văn hóa như một phương tiện để tổ chức mối giao lưu, quan hệ sống giữa con người với nhau bằng những phương tiện có thể đe nẹt, có thể bắt nạt, có thể đè bẹp các giá trị tinh thần của con người.
PV: - Hiện tượng này phản ánh điều gì trong xã hội, thưa ông?
Ông Nguyễn Trần Bạt: - Đấy là một thực tế mà Đảng ta đang phải dựng ra cả một nghị quyết vĩ đại để khắc phục hậu quả, đó là Nghị quyết Trung ương IV.
Tôi xem nghị quyết Trung ương IV là một cuộc chiến đấu rất gian khổ của những người lãnh đạo của chúng ta để giúp xã hội thoát ra khỏi tất cả các tình trạng vô tổ chức, vô kỷ luật, suy thoái, hư hỏng như thế này. Đấy là một cuộc chiến đấu đáng ca ngợi, đáng vỗ tay, và rất đáng khen về lòng dũng cảm và động cơ đạo đức đằng sau đó.
Tôi cảm động về chuyện ấy hơn là đánh giá nó. Tôi không xem cuộc chiến đấu này của những người lãnh đạo đất nước chúng ta như một trò chơi để đặt cọc hay kỳ vọng vào đó hay quan sát nó như là một trò chơi, một cuộc đấu để tin tưởng hay không tin tưởng.
Tôi phải xem tôi và xã hội được hưởng lợi gì từ cuộc đấu tranh ấy và tôi thấy rằng đấy là một cuộc chiến đấu rất đáng kính trọng, và với tư cách là một con người thì đáng cảm động.
Các nhà lãnh đạo của chúng ta buộc phải làm cái gì đấy và đây là việc làm kịp thời, lúc xã hội đã bắt đầu căng thẳng và bức xúc về những thói hư tật xấu mà nói cho cùng do sự quản lý yếu kém tạo ra, và lúc mà mầm mống của một số thói quen xấu bắt đầu hình thành, bắt đầu sừng sộ bắt nạt cuộc sống thông thường. Đây là sự ngăn chặn rất đúng lúc và đây là một cuộc chiến đấu dũng cảm.
Tôi cho rằng luôn luôn phải giúp con người, kể cả những người đã trót dại có những hành vi ngông nghênh. Họ cũng có những tội nghiệp riêng của họ.
Về phông văn hóa, đấy cũng là một cái tội nghiệp, bởi vì trong khi thừa cái này thì họ thiếu cái khác. Thừa cái này và thiếu cái kia sẽ tạo ra các hành vi ngông nghênh như vậy, bởi vì các hành vi xuất hiện một cách tổng hòa giữa cái thừa và cái thiếu trong những yếu tố cấu tạo ra giá trị tinh thần của một con người.
Tiêu tiền bừa bãi sẽ phá hoại các tiêu chuẩn sống
PV: - Liệu những kẻ kiếm nhiều tiền bằng mọi giá như vậy có tạo ra cho xã hội chúng ta một nền kinh tế vững chắc không, thưa ông?
Ông Nguyễn Trần Bạt: - Những người nhiều tiền không có tội gì cả, chỉ có những người tiêu tiền một cách bừa bãi và những người kiếm được nhiều tiền bằng những cách không tử tế, không minh bạch thì gây khó khăn cho xã hội chúng ta.
Sự chơi bời, mua sắm một cách bừa bãi tạo ra hiện tượng phá giá, nhưng nghiêm trọng hơn cả là hiện tượng phá hoại các tiêu chuẩn sống.
Giá cả của cuộc sống phù hợp với năng lực để tạo ra sự yên ổn, khi anh làm quá lên thì anh làm nhiễu loạn hệ thống giá trị, và anh làm cho xã hội phân vân về những cái mình đang có và con người buộc phải phá vỡ sự yên tĩnh để đi tìm một giá trị mà chắc chắn 100% là năng lực của họ không thể tìm được.
Tội ác của những thứ chơi ngông ấy kinh khủng lắm, nó không đơn giản là chúng ta cười rồi chế giễu đâu. Nó buộc phải được lên án về mặt đạo đức một cách chuyên nghiệp chứ không phải bằng việc đưa các tin lá cải.
Tức là phải phân tích khoa học về thói xấu ấy, về tác động xấu ấy đối với xã hội. Những người đó có kiếm được bao nhiêu tiền, tiêu bao nhiêu tiền, đốt cháy bao nhiêu tiền đi nữa thì họ cũng không có thêm giá trị đối với bất kỳ người nào có giá trị.
Những người có tiêu chuẩn, những người biết rõ giá trị họ không bị lung lạc bởi những thứ chơi ngông ấy. Những người như vậy chỉ tập hợp xung quanh mình hai thứ: những thứ đố kỵ, tầm thường mà mỗi người có một chút, và sự trầm trồ của những kẻ hư hỏng và sẵn lòng hư hỏng như họ.
- Xin cảm ơn ông!
Labels:
dai gia,
gia tri song,
nghe thuat song,
nguyen tran bat,
vietnam
Subscribe to:
Posts (Atom)