Showing posts with label suy nghi. Show all posts
Showing posts with label suy nghi. Show all posts

Monday, August 13, 2012

Đừng đem mình ra nướng chỉ vì muốn mùi thơm của thịt



(SVVN)Tiếp tục chủ đề "người trẻ trong khủng hoảng", Sinh Viên Việt Nam có cuộc trò chuyện với ông Nguyễn Trần Bạt, Chủ tịch InvestConsult Group.
"Khủng  hoảng  kinh tế" và "cơn lũ" đạo đức!
Thưa ông, những người trẻ bây giờ cảm giác cuộc sống đang khó khăn sau một vài năm có vẻ "khấm khá". Là chủ một doanh nghiệp lớn như ông, ông có thấy mình đang đối diện với khó khăn?
Cá nhân tôi thì không thấy khó khăn mà thấy nặng nhọc. Kinh tế suy thoái, khủng hoảng, để duy trì mức sống vốn có thì buộc mình phải lao động gấp rưỡi, gấp đôi và do đó, thấy nặng nhọc hơn. Chúng ta vừa đi vừa thở, thậm chí bây giờ, chúng ta không có đủ điều kiện sống nên chúng ta phải chạy để kiếm sống.
Năng lực quan trọng nhất của con người là thích nghi, thích nghi là công nghệ cơ bản để tạo ra thuyết tiến hóa đi từ con khỉ đến Einstein, đến James Joyce, từ con khỉ xứ Đông Á đến Trần Dần. Không bao giờ được mất đi thiện chí để phấn đấu vươn lên cái hoàn thiện bằng cá thể. Hoàn thiện các phẩm hạnh cá thể chính là cách thức tốt nhất để phát triển và bảo vệ quyền con người. Người khôn không bao giờ rơi vào trạng thái "tiêu cực tập thể", để giữ cho mình sự yên tĩnh vốn có của một con người có trách nhiệm, sống một cách tỉnh táo cho mình và bảo vệ sự sống tỉnh táo cho những người xung quanh mình.
Nhưng không phải ai cũng dễ thích nghi. Trong khủng hoảng, người trẻ nên làm gì, thưa ông?
Cuộc sống bình thường vốn đã rắc rối và trong khủng hoảng thì nó rắc rối hơn. Tôi nghĩ rằng, lớp trẻ cứ sống bình thường và tập làm quen với các trạng thái hiện nay của cuộc sống. Quan sát một cách tỉnh táo, suy ngẫm thấu đáo, bởi không mấy khi xã hội khủng hoảng để mình có thể học các bài học. Xã hội đã vô tình tổ chức các thí nghiệm trên quy mô khổng lồ để cho thế hệ trẻ tự phân tích, tự học tập, tự rèn luyện để sống trong cuộc sống phức tạp như thế này.
Tình hình xấu, khó khăn chính là lúc chúng ta phải suy ngẫm để đối phó với nó, bởi chúng ta vẫn phải tiếp tục sống lâu dài trong môi trường ấy. Để đạt được sự phát triển, trở thành một xã hội có nề nếp, chúng ta phải mất nửa thế kỷ nữa là ít, nếu không muốn nói một cách chính xác là chúng ta phải mất hàng thế kỷ nữa. Những sự khủng hoảng hiện nay chỉ là những dấu hiệu ban đầu.
Nhớ rằng, để có được tất cả những gì mình muốn, chúng ta phải đi qua một cuộc trường chinh. Lớp trẻ là chủ của tương lai và họ phải học cách làm chủ từ trong tình hình khó khăn. Không nên xem lớp trẻ là một đàn thỏ và chúng ta phải có trách nhiệm kiến tạo điều kiện sống tương lai cho đàn thỏ ấy. Lớp trẻ là chủ nhân thật sự, chủ nhân tương lai của cuộc sống của họ, mà cuộc sống của họ chính là phái sinh của cuộc sống mà chúng ta đang có. Họ phải làm quen, phải học tập, phải kiên nhẫn. Không mấy khi cuộc sống tạo ra cho chúng ta những trường hợp rắc rối, những trạng thái rắc rối như thế này để học tập kinh nghiệm.
Thời trẻ của ông, ngoài việc phải đối diện với chiến tranh còn phải đối diện những khủng hoảng nào khác?
chu Bat.JPG
Chúng tôi đối diện với tất cả các khủng hoảng. Các bạn tưởng chiến tranh là mọi người đều bằng nhau, mọi người đều yêu nước như nhau, mọi người đều ra trận như nhau...? Không phải thế! Ở những chỗ công khai, mọi người có vẻ giống nhau nhưng ở những chỗ riêng tư, mọi người rất không giống nhau. Trong lớp học của tôi lúc trẻ, có con người nghèo thành thị như tôi, có con của các cán bộ trung cấp bình thường, có con những cán bộ cao cấp, có đứa nhà giàu, có đứa nhà nghèo, có đứa không có ăn. Bọn trẻ vẫn phải sống trong một xã hội rất nhiều đối tượng, ở những khía cạnh khác nhau. Nhưng vì chung một kẻ thù là đế quốc xâm lược cho nên tất cả các mặt đối lập ở trong tâm lý bớt đi, tất cả cùng nhau ca ngợi người chiến sĩ quân đội và cùng ra trận. Tất cả vẻ đẹp tiền tuyến ấy chi phối, làm cho người ta lãng quên sự chênh lệch giàu nghèo ở bên trong đời sống thông thường.
Bây giờ, chúng ta không ở trong trạng huống đó, chúng ta không còn kín đáo nữa, người giàu khoe cái giàu sang, người mạnh khoe cái mạnh mẽ. Bắt nạt được ai là bắt nạt, thu xếp được ai là thu xếp. Đâm xe vào người ta thì lấy điện thoại ra gọi cho người quen. Bây giờ, mọi chuyện lộ liễu hơn, cho nên nó kích động một sự phản ứng lộ liễu hơn. Chúng ta phải tập kiểm soát mình trong trạng thái bị gây cho khó chịu thường xuyên như vậy, để giữ gìn được sự bình tĩnh của mình, sự yên ổn của cuộc sống. Những mặt trái của xã hội ngày nay như một cơn lũ về mặt đạo đức và mỗi người chúng ta phải tự trang bị cho mình, người sắm "phao", người sắm "thuyền", để không "chết chìm" trong "cơn bão".
Hãy kiến tạo một cái tốt hợp lý!
Theo ông, giáo dục có vai trò gì trong việc chuẩn bị kỹ năng cho con người?
Có một điều buồn là giáo dục đang được hiểu sai. Nhiều người nghĩ rằng, giáo dục như một công việc của Nhà nước, giáo dục như công việc của nhà trường là một cách hiểu rất sai. Trong chiến tranh không có nhiều trường, lớp nhưng có biết bao nhiêu giáo sư, bao nhiêu bác sĩ giỏi, bao nhiêu nhà phẫu thuật vĩ đại xuất hiện từ các lớp học tranh tre thời kháng chiến ở Việt Bắc. Trong khi Nhà nước chưa làm tốt được các chương trình tổ chức giáo dục của mình thì con người, với tư cách là một chủ thể của cuộc sống, tự tổ chức giáo dục cho mình bằng cách dạy thêm cho con, uốn nắn thêm về những thiếu sót mà xã hội không gợi ý, không dạy cho nó.
Con người phải tìm cách bù đắp cho chính tương lai của mình những kinh nghiệm rút ra được từ những  bối cảnh tiêu cực. Không có lối thoát nào khác. Ai đó thích chờ đợi cứ chờ đợi, còn tôi thì không. Chúng ta luôn luôn đứng giữa mọi thực tế tích cực hoặc tiêu cực, tận dụng tất cả các yếu tố có thể tận dụng được để kiến tạo ra cuộc sống của mình, của gia đình, của những người mình quen biết và khuyên họ những điều hợp lý, những hành động hợp lý để tổ chức ra cuộc sống của mình.
Trong những thời điểm như thế này, ông thường hay mách bảo hay dạy bảo con mình điều gì?
Hãy sống một cách nghiêm túc, giữ gìn sự trong sáng, lương thiện, lao động một cách tích cực và khôn ngoan. Hiểu cái xấu nhưng không theo nó, hiểu cái tốt nhưng không bắt buộc phải có nó bằng mọi giá. Chúng ta muốn cái tốt bằng mọi giá cũng là một thái độ sai. Chúng ta tôn thờ cái tốt lý tưởng và cố gắng kiến tạo cho mình một cái tốt hợp lý.
Nhưng phải là người có năng lực như thế nào mới làm được việc đấy?
Luôn luôn cần năng lực. Rèn luyện năng lực là công việc của mỗi cá nhân.
Trong những thời điểm khủng hoảng này thì đạo đức đang bị thách thức, muốn giữ được sự trong sạch và phấn đấu để có được "một cái tốt hợp lý" cũng không đơn giản, bởi vì mỗi cá thể phải đối chọi với những cám dỗ xấu mỗi ngày?
Không có gì đơn giản cả. Những người đủ bản lĩnh giữ cho mình tốt ngày càng nhiều lên thì những kẻ xấu ngày càng ít đi. Làm cho lực lượng xấu hằng ngày ít đi, chính là bảo vệ mình. Alecxey Tolstoy viết quyển Hai chị em (tập đầu tiên trong tiểu thuyết bộ ba Con đường đau khổ) có một câu rất hay: "Rồi năm tháng sẽ trôi qua, những cuộc chiến tranh sẽ im ắng dần, các cuộc cách mạng sẽ thôi gầm thét, chỉ còn lại bất diệt tình yêu của em và tôi". Tôi luôn tin vào sự hợp lý, năng lực thu xếp những trạng thái hợp lý của một "không gian con" của riêng mỗi một con người, để con người bảo tồn các phẩm hạnh của mình, ít nhất trong không gian be bé, riêng tư ấy của mình.
Giữ mình trong thời điểm khó khăn như thế này cũng là một thách thức với giới trẻ. Suy cho cùng, người trẻ nào mà không thiếu kinh nghiệm, ngay cả người già, nhiều khi vẫn thiếu kinh nghiệm. Cho nên, nó là thách thức khi anh thiếu kinh nghiệm sống trong một điều kiện như thế. Nếu như anh học, anh giàu năng lực suy tưởng thì anh không phải trả giá để có kinh nghiệm, không phải đem mình ra nướng chỉ vì muốn mùi thơm của thịt.
Xin cảm ơn ông về cuộc trò chuyện thú vị này!
Lê Ngọc Sơn(Thực hiện)

Thursday, December 3, 2009

Bàn về "những giá trị sống"

Hỏi: Ông là một người từng trải và chúng tôi rất mong ông trò chuyện giúp người trẻ suy nghĩ, nhìn nhận lại, đặt lại vấn đề về các giá trị nền tảng nhất cho cuộc sống. Mong ông cùng chia sẻ với độc giả về những điều họ cũng đang nghĩ, đang đi tìm và có thể chưa tìm ra hoặc tìm sai cho mình.

Trước hết xin hỏi ông về sự chuyển hướng của ông trong việc đi tìm kiếm lại những giá trị thực của mình trong xã hội hiện nay. Vấn đề mà người ta hay nói nhất hiện nay là sự sụp đổ niềm tin và những giá trị giả đang lên ngôi và đang lấn lướt những giá trị thật. Ông có thấy đau nỗi đau đấy không và bản thân những nỗi đau đó đã tác động đến ông như thế nào trong quá trình viết và suy nghĩ?

Trả lời: Tôi nghĩ thực ra không cần phải bi quan đến thế. Không phải các giá trị giả lấn át các giá trị thật mà những giá trị chúng ta tưởng là thật thua những giá trị mà chúng ta tưởng là giả. Thực ra những giá trị mà chúng ta tưởng rằng bị mất đi hoặc bị lấn át cũng vẫn là những giá trị giả. Bởi vì trong lịch sử của đất nước chúng ta, con người chưa bao giờ thật sự tiếp xúc với tự do và có các quyền về phương diện tự do, vì thế cái gì mà mỗi một cá nhân chưa có thật, không có thật và không có quyền có thật thì cái đấy được gọi là giả. Đôi khi người ta nhầm lẫn giữa tiền bố mẹ cho và tiền của mình. Chúng ta, những người Việt, trong hơn nửa thế kỷ có rất nhiều thứ được cho, bị cho và cho. Chính cái hỗn hợp 3 yếu tố được cho, bị cho và cho ấy là những thành tố tham gia vào cái quá trình tạo ra màu sắc thật của những cái mà chúng ta tưởng rằng mình có. Vì thế cho nên bây giờ có những cái chưa kịp định hình, những cái chưa kịp được sàng lọc, những cái chưa kịp được nhận thức, nó là bóng dáng của những cái sẽ có và chúng ta tưởng rằng những cái sẽ có ấy lấn át cái đã có và đang có.

Đôi khi con người, do nhịp điệu của công việc, nhịp điệu của sự sống, do sự chạy đua, do sự cạnh tranh, do sự bon chen mà vận hành đời sống tinh thần của mình với một tốc độ quá lớn và không phù hợp để người ta có thể hình thành các nhận thức. Chúng ta thấy rằng thường các học giả bao giờ cũng chậm rãi, vì khi nào người ta còn suy ngẫm thì người ta không chạy được. Tôi nghĩ rằng bây giờ đại bộ phận người Việt chạy nhanh quá nên không kịp suy ngẫm và do đó nhầm lẫn giữa những cái mình có với những cái mình sẽ có, giữa những cái mình thực có và những cái mình không thực có, và đôi lúc những người bi quan thì thường thấy cuộc sống đang diễn ra như là cái giả lấn át cái thật.

Tôi lấy ví dụ về chuyện bằng giả chẳng hạn. Bằng giả là một khái niệm có thật và bằng giả có vẻ lấn át nếu nhìn từ bên ngoài, nhưng nếu nhìn từ bên trong thì không phải như thế. Phải nói rằng, sự phân biệt thật giả trong thời buổi phát triển với tốc độ nhanh như thế này buộc con người phải có năng lực chuyên nghiệp để đánh giá, để phân biệt thật giả. Vì đại bộ phận con người không có khả năng ấy cho nên có một ấn tượng đem lại một cảm giác bi quan, đó là cái giả đang lấn át cái thật. Phải nói rằng, trong lịch sử hình thành loài người bao giờ con người cũng có cảm giác như vậy, các thời đại trước cũng có cảm giác như vậy. Vì thế, mới sinh ra những người như Vũ Trọng Phụng để viết "Số Đỏ", mới sinh ra những Khái Hưng, Nhất Linh v.v, luôn luôn tố cáo cái sẽ có như là yếu tố giả, chỉ có những cái mình thật có trong tay, mình từng trải với nó, sống chung với nó một thời gian đủ lâu thì mới xem cái đó là thật.

Tôi nghĩ rằng cái có thật chưa chắc đã tích cực và cái có giả chưa chắc đã tiêu cực. Cho nên, để nhận thức được câu chuyện này đòi hỏi con người phải có năng lực. Cái thiếu của xã hội chúng ta là chúng ta không có những nền tảng học vấn đủ để hướng dẫn con người trong việc lựa chọn, phân loại và đánh giá, cho nên gây cho con người một cảm giác không tự tin lắm trong việc quan trắc đời sống, và do đó gây ra một cảm giác bi quan không cần thiết.

Hỏi: Vậy theo ông, điểm mấu chốt trong những tác phẩm ông đã viết là tìm lại tự do cho chính mình và có quyền được lựa chọn?

Trả lời: Khẳng định tất cả các quyền cá nhân là một trong những điểm có chất lượng chiến lược để hình thành xã hội mà trong đó con người có thể tự tin được, con người có thể phân biệt thật giả được, con người có thể có bản lĩnh để sống và đối phó với những cái sẽ có. Chúng ta chưa có tự do, chúng ta chưa có ý niệm về tự do một cách rõ ràng. Một vài học giả, một vài trí thức lớn hoặc một vài nghệ sỹ lớn cũng cố gắng mô tả tự do một cách khái quát, nhưng biến thành các hệ thống tiêu chuẩn để định nghĩa khái niệm tự do và vai trò của nó đối với thân phận của mỗi một con người thì dường như ở Việt Nam chưa ai đặt ra vấn đề như vậy. Tôi là một trong những người có thể nói là hiếm ở Việt Nam cố gắng làm chuyện đấy, và tôi không dám nói là tôi đã thành công, nhưng tôi chắc chắn rằng sự cố gắng này là có thật.

Hỏi: Ông có gặp khó khăn gì trong quá trình tư duy để đặt lại những giá trị về tự do?

Trả lời: Đánh trận giả thì không có gì khó khăn cả. Cái khó khăn duy nhất là xung quanh tôi không có những bằng chứng về tự do, về các quyền tự do, cho nên tôi buộc phải suy tưởng, buộc phải tưởng tượng. Xung quanh tôi chỉ có hiện tượng vô chính phủ chứ không phải có tự do. Đi vệ sinh bậy ở ngoài đường chẳng hạn, hút thuốc lá trong rạp chiếu phim, nghe điện thoại trong nhà hát lớn chẳng hạn, họp chính phủ đôi lúc cũng thấy các bộ trưởng lén nghe điện thoại chẳng hạn, tất cả những thứ đấy là biểu hiện của sự vô chính phủ chứ không phải tự do.

Tự do là gì? Tự do là hoạt động tự nhiên của con người trong những điều kiện nó không dẫm đạp lên các quyền tự do của người khác. Tôi nghĩ rằng, ở Việt Nam có rất ít bằng chứng về tự do, hơn nữa lịch sử giáo dục của cá nhân tôi cũng rất không thuận lợi cho việc suy nghĩ và nghiên cứu khái niệm này. Phải nói rằng, để làm được một số việc ngăn ngắn, nho nhỏ trước mắt thì tôi cũng đã phải vượt qua chính lịch sử của bản thân mình, đặc biệt là lịch sử giáo dục.

Hỏi: Thời buổi hiện nay người ta đề cập đến từ khủng hoảng rất nhiều, khủng hoảng kinh tế, khủng hoảng tiền tệ, khủng hoảng trong đời sống tinh thần của cá nhân. Khi mà phương Tây quá khủng hoảng như thế thì họ quay về các giá trị của phương Đông.

Là một người phương Đông, ông thấy định nghĩa về tự do có sự hài hòa như thế nào trong triết lý phương Đông và triết lý phương Tây?

Trả lời: Tôi muốn đính chính lại về câu hỏi này. Phương Tây không khủng hoảng đến mức phải quay về các giá trị của phương Đông. Có thể có một vài người hoặc một cộng đồng phương Đông nào đó đi tìm phương Tây không được thì quay về phương Đông. Giống như người ta vào Sài Gòn mà không thể kiếm đủ tiền để chi tiêu theo tiêu chuẩn Sài Gòn thì đành phải quay trở lại Hà Nội. Phương Đông nói thẳng ra chưa bao giờ là chỗ quay về của bất kỳ ai ngoài chính phương Đông, và đấy là sự bất lực của phương Đông trong việc tiếp cận với phương Tây chứ không phải phương Tây quay về phương Đông. Đôi khi người ta cứ ngộ nhận và đấy là tình trạng thiếu thông tin. Phải nói rằng, chỉ cần áp dụng các kinh nghiệm, các nguyên tắc hay là các lý luận của phương Tây trong vòng từ năm 1978-2008, người Trung Quốc đã từ một nước nghèo khổ trở thành một nước khá giả, tôi không nói là một xã hội khá giả vì xã hội Trung Quốc còn lâu mới khá giả mà chỉ là một nhà nước khá giả. Những kinh nghiệm phương Tây có đã giúp một loạt các nước phương Đông ra khỏi bóng tối, ra khỏi hang hốc của mình.

Bây giờ phương Tây đang khủng hoảng, nhưng bất kỳ một sự phát triển nào cũng dẫn đến khủng hoảng và khủng hoảng như hiện nay là khủng hoảng tất yếu, là hệ quả của một sự phát triển quá nhanh của nền kinh tế thế giới, thậm chí nhiều hơn cả nền kinh tế là của tình trạng xã hội. Khi kinh tế đã khủng hoảng thì xã hội sẽ khủng hoảng theo, văn hóa cũng khủng hoảng theo, chính trị cũng khủng hoảng theo, và tất cả những chuyện ấy là dấu hiệu của sự phát triển chứ không phải là bằng chứng tiêu cực. Cuộc khủng hoảng này có thể bắt đầu từ phương Tây nhưng không phải là khủng hoảng của phương Tây mà là cuộc khủng hoảng của nhân loại, khủng hoảng toàn cầu, và phải khẳng định rằng không có nước phương Tây nào quay trở lại phương Đông sau khủng hoảng cả.

Câu hỏi này phản ánh một tâm trạng rất phổ biến và nếu không nhận thức được một cách rành mạch câu chuyện này thì phải nói thật là nhân loại mất phương hướng và người phương Đông tự nhiên trở thành tự mãn. Bây giờ có người nói rằng Trung Quốc bằng với Mỹ rồi, trong khi kể cả khủng hoảng thì thu nhập của người Mỹ cũng từ 40.000 đô la xuống 35.000 đô la, còn người Trung Quốc thì vẫn chỉ có một vài ngàn đô la thôi. Và thu nhập một hay một vài ngàn đô la ấy cũng chỉ tập trung ở một vài đô thị, còn 90% dân số nước CHND Trung Hoa vẫn tiếp tục nghèo đói theo tiêu chuẩn của phương Tây (tôi không nói theo tiêu chuẩn của những người nghèo đói trên thế giới). Phải nói rằng người dân Trung Quốc vẫn là người nghèo, có một số người Trung Quốc trở thành tỷ phú và tốc độ hình thành các tỷ phú rất lớn, nó phản ánh sự lạc hậu về mặt thể chế của Trung Quốc. Trong khi có hàng trăm triệu con người nghèo khổ thì bỗng nhiên có thêm một cách nhanh chóng dăm bẩy người trở thành tỷ phú, cái mặt ấy là mặt thể hiện sự tiêu cực nhiều hơn là tích cực.

Nếu chúng ta nhầm lẫn trong việc đánh giá tình trạng khủng hoảng hiện nay và nói rằng phương Tây sẽ trở lại phương Đông và viết điều đó lên báo thì người ta sẽ cười. Ngay cả người phương Đông cũng cười. Những người thành đạt ở phương Đông biết rất rõ là mình thành đạt bằng các phương thức phương Tây chứ không phải bằng phương thức phương Đông. Nói cách khác, người ta lợi dụng sự sắc sảo của phương pháp phương Tây và lợi dụng sự ngốc nghếch của đại bộ phận dân chúng phương Đông để thành công. Sự giàu có ở phương Đông được hình thành chủ yếu bởi hai nguồn như vậy.

Hỏi: Vậy theo ông nếu đặt lại những vấn đề nền tảng về tự do cũng như nền tảng về các phương thức thành công của người phương Tây thì ông sẽ đưa ra những điều gì?

Trả lời: Tôi nghĩ rằng tự do quan trọng ở chỗ nó làm cho con người cảm thấy có trách nhiệm với mình, có trách nhiệm với xã hội của mình, không bị áp đặt, không a dua, không theo ai cả, và khi xã hội có những sự thống nhất mang chất lượng tự giác về quyền lợi thì chi phí để quản trị xã hội ấy giảm xuống rất nhiều. Trong khi chúng ta giãy dụa về chuyện cải cách giáo dục thì ở phương Tây không có nước nào kêu khủng hoảng về vấn đề ấy cả. Tại sao phương Tây quay về với các giá trị phương Đông mà học sinh Việt Nam, học sinh Trung Quốc vẫn đi du học 500.000 -700.000 người một năm sang phương Tây? Người ta đi học cái cách thức của phương Tây và tận dụng sự ngốc nghếch của phương Đông để làm giàu, thậm chí để làm chính trị nữa chứ không chỉ để làm giàu. Có thể nói, nền tảng sự phát triển của một số cá nhân hạn hẹp ở phương Đông chính là những phương thức sắc sảo mà chủ yếu là học ở phương Tây cộng với sự thấp của dân trí. Nghiên cứu thị trường chứng khoán sẽ thấy rõ điều ấy.

Hỏi: Theo ông không có quyền tự do cũng chính là nguyên nhân lớn nhất làm cho phương Đông không phát triển?

Trả lời: Đúng thế. Điểm tập trung, điểm cô đặc nhất của toàn bộ các khuyết tật của một xã hội, trong đó có khuyết tật dân trí chính là thiếu tự do. Hay nói cách khác là không có điều kiện để hình thành các cá nhân. Đó là những đàn, những bầy được lãnh đạo, được chỉ huy và được kiểm soát, do đó con người không thể sáng tạo được và mảnh đất ấy trở thành mảnh đất vàng của những kẻ láu cá và cơ hội. Điều rất nhiều người than vãn hiện nay là chúng ta mất các giá trị văn hóa truyền thống. Tôi là người nghiên cứu các giá trị văn hóa, tôi có thể nói rằng không có hiện tượng ấy. Đấy là sự luyến tiếc của con người đối với bộ quần áo cũ, đấy không phải là bản sắc.

Tôi thấy cần phải nói rằng chúng ta không nên có khái niệm giữ gìn bản sắc. Văn hóa là một khái niệm tự nó, bản sắc là tự nó cho nên không đánh mất được, nó chỉ thay đổi cùng với đòi hỏi của cuộc sống, cùng với tốc độ tăng trưởng của cuộc sống. Ở những trạng thái chưa chín, ở những khía cạnh chưa chín của nhận thức của người quan sát cũng như của những người đang là thành tố để hình thành một tiêu chuẩn văn hóa mới thì người ta có cảm giác nó ngô nghê, nó kệch cỡm. Cảm giác kệch cỡm ấy sẽ mất dần cùng với sự phát triển, cảm giác luyến tiếc bản sắc cũng dần dần mất đi cùng với sự phát triển.

Sự phát triển cá nhân đích thực sẽ làm cho con người duyên dáng tại mỗi một phút của nó trong cuộc sống. Bởi vì chúng ta đi từ chỗ một bầy đàn đến một cá nhân cho nên trạng thái không tự tin ở giữa chặng đường dịch chuyển như vậy tạo cho con người một sự vụng về, lóng ngóng, thiếu tự tin và do đó chúng ta cảm thấy chúng ta mất mát. Có rất nhiều người cũng cố gắng lịch sự, ngồi thì không gác chân lên ghế, tiếp khách không chép miệng v.v, nhưng chỉ giữ gìn được lúc ban đầu, đến khi cơn lên rồi thì người ta lại nhai nhóp nhép, lại gác chân lên ghế, lại hút thuốc lào sòng sọc và bảo "thôi chúng ta lại quay về với những giá trị bản thể, với bản sắc". Đấy là sự đầu hàng các quá trình phát triển chứ không phải là sự mất mát bản sắc hay giữ gìn bản sắc. Có thể có nhiều người sẽ khó chịu với những gì tôi vừa nói, nhưng bản chất của nó là như thế, tôi không thể nói khác được.

Hỏi: Nhưng cũng có nhiều ý kiến cho rằng, sự vụng về, sự thô lậu trong cách ứng xử, cách sống là do không có sự chuẩn bị của mình trong một quá trình mà là một sự đột biến. Ông có đồng ý với ý kiến ấy không?

Trả lời: Cách đây mấy tháng tôi vừa xuất bản một quyển sách tên là "Cội nguồn Cảm hứng", trong đó tôi lý giải về khái niệm tự do, về cá nhân. Tôi nghĩ rằng sự vụng về có ở tất cả mọi người. Tôi kể một câu chuyện như thế này.

Cách đây mấy năm tôi có dự một lớp huấn luyện về Bảo vệ các quyền Sở hữu trí tuệ do cơ quan điều tra của chính phủ Hoa Kỳ là FBI tổ chức, giảng viên là chánh cảnh sát của thành phố Westminster. Tôi mời nhóm giảng viên ấy ăn cơm tối và ông chánh cảnh sát ấy nói rằng "Khi tôi đi sang đây vợ tôi xem tôi quay lại Việt Nam có thể chết nên vợ tôi rất bịn rịn và còn khóc nữa, nhưng sang đây tôi không những không chết mà còn được ngài mời cơm, nói chuyện thoải mái thế này" và ông ấy rưng rưng nước mắt. Cái đấy chính là sự lóng ngóng vụng về của người Mỹ khi đến Việt Nam, và khi chúng ta đến Mỹ chúng ta cũng lóng ngóng vụng về như vậy. Lóng ngóng, vụng về là trạng thái ban đầu của quá trình làm quen với một nền văn hóa và với một trình độ phát triển, ai cũng có điều ấy cả. Ai khi đến một nền văn hóa mới cũng có những lóng ngóng. Chẳng hạn khi đến Nhật Bản chúng ta vẫn quen xưng hô Lady and Gentlemen, nhưng ở Nhật Bản thì người ta không xếp Lady lên trước. Nếu chúng ta mang kinh nghiệm tiếp xúc với người phương Tây và người Mỹ vào áp dụng ở Nhật Bản thì chúng ta có thể phạm sai lầm vì nó không phù hợp với nền văn hóa Nhật. Khi va chạm với những môi trường văn hóa lạ bao giờ con người cũng có một trạng thái được gọi là lóng ngóng, vụng về, ngượng nghịu và cái đó là cái đáng yêu nhất của con người. Con người đáng yêu vào lúc họ lóng ngóng, vụng về, còn khi người ta trơ ra rồi, người ta mắt la mày lém, người ta nghênh ngang thì người ta không còn đáng yêu nữa.

Trạng thái làm quen giữa các nền văn hóa là trạng thái đáng yêu nhất mà loài người có. Ta biết rằng trong những gia đình quý phái ở phương Tây bao giờ cũng có những buổi vũ hội đầu tiên của cô con gái mới lớn. Một cô gái đến dự buổi vũ hội đầu tiên khi các chàng trai nhìn vào thì thế nào cũng nhún nha nhún nhẩy, thế nào cũng lóng ngóng. Cái lóng ngóng của một trinh nữ chính là vẻ đẹp lớn nhất mà con người có. Sự lóng ngóng của một nền văn hóa để tìm hiểu một nền văn hóa khác, để thích nghi với một nền văn hóa khác là sự lóng ngóng đáng yêu và chúng ta thấy buồn cười với mình, nhưng không ai nhìn chúng ta thấy buồn cười cả. Nếu được giải phóng rồi, cảm thấy tự do rồi thì chúng ta không phải áy náy về sự lóng ngóng của mình mà chúng ta thưởng thức sự lóng ngóng của mình. Rất nhiều cô trơ ra rồi, không còn lóng ngóng được nữa, bây giờ diễn lại trò lóng ngóng, bắt chước sự lóng ngóng của thời xa xưa ấy là khó hơn nhiều so với việc thể hiện sự từng trải.

Hỏi: Vậy là ông nhìn tất cả những sự dịch chuyển trong giai đoạn này cũng chỉ là một sự lóng ngóng rất đáng yêu?

Trả lời: Đúng thế. Đây là lúc người Việt ra khỏi làng, người Việt ra phố, dân thuyền chài men sông ra biển. Ví dụ cái lóng ngóng của một nhà thơ Việt Nam khi đối mặt với Shakespear chẳng hạn, tất cả những chuyện như thế đáng yêu lắm. Tôi thấy cuộc sống không bi quan đến mức như thế. Xét về phương diện sự thích nghi dần với tốc độ phát triển, với sự hội nhập của các cá nhân, tôi không thấy có gì đáng bi quan cả. Có thể thấy những người ăn mặc rất dữ dội nhưng nói chuyện vẫn rất nền nã, lễ phép. Cái vẻ đáng yêu không mất đi, cái giá trị cốt lõi của con người không mất đi cùng với sự hội nhập mà được thử thách bằng sự hội nhập. Cái đau đớn là chúng ta vẫn hiểu sai rằng nó mất đi cùng với sự hội nhập mà không hiểu rằng nó được thử thách bằng sự hội nhập.

Hỏi: Rất thú vị khi ông lý giải được những lo lắng của mọi người hiện nay là toàn cầu hóa thì sẽ đánh mất mình.

Trả lời: Chẳng ai đánh mất mình được, muốn đánh mất cũng không được. Nó là máu, là thịt, nó nằm trong gen, không mất được. Tôi kể câu chuyện thế này.

Trong một lần tôi đến Washington DC, buổi tối tôi đến ăn cơm ở một tiệm ăn Việt Nam và thấy ở đó có món bún riêu. Tôi rất ngạc nhiên khi thấy có món này và tôi hỏi ông chủ quán, một người Hà Nội lớn tuổi rất đẹp lão rằng "Bác có mắm tôm không?". Ông ấy nói rất nhỏ rằng "Có", rồi bê ra một đĩa mắm tôm nhỏ bảo rằng "cái này là nhà dùng để ăn riêng chứ không mang cho khách, nhưng anh hỏi thì tôi đưa". Tức là ông ấy cũng lóng ngóng khi thưởng thức cái món mình rất thích là mắm tôm trước mặt người Mỹ, cho nên ông ấy giấu đi để ăn riêng, nhưng khi gặp người thích ăn mắm tôm giống mình thì cũng không kìm được và thể hiện cái bản sắc thích mắm tôm của mình. Lúc trả tiền tôi đưa thừa 50 đô la, ông ấy trả lại tiền thừa nhưng tôi bảo rằng "Tôi cố tình đưa như vậy vì tôi muốn thưởng cho bác cái công đưa được mắm tôm đến đất Mỹ". Ông ấy cười và mời tôi ngồi lại uống rượu.

Con người có thể đánh mất các khía cạnh chính trị, nhưng bản sắc, chất lượng văn hóa thì không đánh mất được. Có thể một người yêu nước trở thành một kẻ bán nước, một người tích cực trở thành một kẻ tiêu cực trong con mắt của một số các nhà chính trị, nhưng cái đặc trưng văn hóa cá nhân thì không mất được, không thay đổi được.

Bởi vì chúng ta luôn có khuynh hướng đồng nhất văn hóa với chính trị cho nên chúng ta sợ, những nhà quản lý sợ mất cái yếu tố chính trị mà mình cần ở trong một con người, và vì không dám nói điều ấy nên họ kêu toáng lên về sự đánh mất bản sắc. Bản sắc là cái cớ để họ kêu la chứ bản sắc không mất được. Đây là một phát hiện rất quan trọng.

Hỏi: Ông có đề cập nhiều đến quản lý vĩ mô, đến vai trò của nhà nước. Vậy theo ông người làm chính trị của chúng ta thiếu nhất cái gì?

Trả lời: Họ thiếu nhất cái hiểu biết về con người, họ thiếu nhất cái ý chí về việc bảo vệ các quyền cơ bản của con người. Chúng ta biết rằng ở Trung Quốc có chuyện cho Melamine vào trong sữa, bây giờ người ta phát hiện ra melamine dùng để sản xuất các bát đĩa nhựa. Rất nhiều người lên án đó là đạo đức, nhưng tôi thì nhìn sự việc ấy như một biểu hiện của sự thiếu hụt tính tự giác về quyền con người. Khi người ta dân sự hóa, đời thường hóa các tiêu chuẩn, các nguyên lý của quyền con người thì người ta không làm hay người ta bị bó buộc để không làm những việc giết người một cách phổ biến như vậy bằng cách cho chất độc vào trong thực phẩm hoặc các dụng cụ ăn uống. Tôi nghĩ rằng sự thiếu hụt nhất của một số lượng lớn các nhà chính trị ở các nước lạc hậu về chính trị chính là thiếu ý thức về quyền con người. Khi người ta đã lấy cái đó làm một trong những giá trị căn bản của các phẩm chất của một nhà chính trị thì người ta sẽ tìm ra được một phương thức.

Chúng ta đôi lúc nhầm lẫn sự thiếu hụt của một nhà chính trị với sự vụng về của nhà chính trị. Sự vụng về của một nhà chính trị là một biểu hiện như tôi vừa phân tích lúc nãy, đó là sự dịch chuyển từ một nền văn hóa chính trị này đến nền văn hóa chính trị khác.

Tức là sự làm quen của một nhà chính trị thuộc nền văn hóa này với một nền văn hóa khác thì nó tạo ra sự vụng về. Tôi không lên án sự vụng về của một nhà chính trị, nhưng sự thiếu hụt những đặc trưng cơ bản để hình thành phẩm chất của một nhà chính trị là nghĩ đến con người, giải phóng con người, chăm sóc con người, bảo vệ các quyền của con người đã tạo ra rất nhiều hiện tượng tiêu cực: sự coi thường nhân dân, tham nhũng rồi tất cả sự quấy nhiễu này khác, đấy là biểu hiện cơ bản của việc không tôn trọng quyền con người. Bây giờ nếu như người ta nhìn bạn là một cá nhân thì không lý gì một anh văn thư ở một phường lại có thể hống hách, hạnh họe bạn được, đấy là biểu hiện của việc không có con người. Không có cá nhân là không có con người, trước mặt là những đối tượng mà mình quản lý, mình cho chứ không phải là con người. Thiếu hụt cơ bản của hầu hết các nhà chính trị ở các nước lạc hậu là ở điểm ấy, còn khuyết tật thì nhiều lắm, chúng ta phải biết phân loại cái gì là căn bản. Trong quyển sách "Cội nguồn cảm hứng" tôi có nói rằng Tự do sinh ra con người, không có tự do thì không có con người và tôi đưa ra cả khái niệm tiền con người.

Tôi thảo luận với rất nhiều giáo sư ở trên thế giới về khái niệm tiền con người và rất nhiều ông tá hỏa lên hỏi tôi rằng "Liệu ông có xúc phạm đến một số quá đông không? Bởi vì theo tiêu chuẩn của ông thì thế giới này chưa được 1/3 loài người là con người?".

Hỏi: Ông có kỷ niệm nào trong đời sống cá nhân khi giá trị của mình bị chà đạp?

Trả lời: Tôi là một người tự do, hay là người có ý chí tự do từ khi còn bé cho nên phải nói rằng, tôi tránh một cách rất xuất sắc những tình huống để người ta đẩy mình vào thế mất tự do hay mất các giá trị cá nhân. Tôi từ chối những quyền lợi mà tôi phải đổi bằng tự do cá nhân. Cho nên kinh nghiệm lớn nhất của tôi là kinh nghiệm tránh được những tình huống bị người ta chà đạp lên những giá trị cá nhân của mình.

Sau khi đi bộ đội về tôi học lại phổ thông một vài năm. Vì là bộ đội về nên tôi nhận được khá nhiều ưu tiên, nhiều đề xuất có lợi. Tôi có được đề nghị đi học ở nước ngoài, đề nghị kết nạp Đảng, và tôi có một người bạn gái. Ông bí thư chi bộ của cái trường tôi học bảo tôi rằng: Cậu có hai quyết định thế này nhưng cậu có khuyết điểm là cậu có quan hệ luyến ái khi cậu còn là học sinh, vì thế nếu cậu chấm dứt chuyện yêu đương thì sẽ có được hai quyết định này. Tôi cười và bảo "Những cái này không cùng thứ nguyên. Thầy là người dạy vật lý, thầy hiểu rất rõ rằng những cái không cùng thứ nguyên thì không đổi cho nhau được, và nếu thầy ép một sự đổi chác không cùng thứ nguyên thì thầy cứ giữ lấy cái của thầy". Đấy là kỷ niệm của tôi về việc phải bảo vệ các quyền cá nhân của mình bất chấp mọi sức ép. Không thể hình thành nổi các giá trị cá nhân nếu cái đuôi của mình ngoe nguẩy trước bất kỳ thế lực nào và quyền lợi nào. Tuy nhiên, tôi cũng không lên án sự ngoe nguẩy ấy, bởi sự ngoe nguẩy cũng là tự do, tự do ngoe nguẩy. Có những người không ngoe nguẩy được mà quỳ mọp xuống, run sợ, tái người đi, chứ còn đã chủ động đến mức ngoe nguẩy để đánh đổi sự ngoe nguẩy của mình lấy một quyền lợi nào đó thì tức là đã bao hàm trong đó có cả ý nghĩa tự do, tất nhiên là tiêu cực và giới hạn.

Tôi nghĩ rằng trong quá trình con người dịch chuyển đến tự do có cả những chặng ngoe nguẩy. Tôi không lên án sự ngoe nguẩy ấy. Các trạng thái hay các phong cách ngoe nguẩy càng phong phú bao nhiêu thì nền văn hóa dịch chuyển ấy càng phong phú bấy nhiêu. Và nếu quan sát với tư cách là một nhà khoa học hay một nhà hàn lâm nhân văn thì bạn sẽ thấy rằng thương con người thông qua sự ngoe nguẩy của nó chứ không phải coi thường nó, bởi vì ngoe nguẩy chính là bản năng sống. Có một thời kỳ chúng ta tái mặt đi chứ không ngoe nguẩy. Từ ngoe nguẩy, đánh đổi những giá trị bằng mồm miệng đến mua bán quyền lực, đấy là những chặng phát triển như là một khuynh hướng được gọi là tha hóa. Tha hóa cũng là biểu hiện của tự do, nhưng là tự do chết.

Hỏi: Theo ông, bây giờ tự do chết có nhiều không?

Trả lời: Nhiều. Bởi vì sai thì chết. Con người, nhất là người Việt chúng ta, trong nửa thế kỷ không được trang bị bất kỳ kiến thức gì để sống một cách độc lập và chủ động cả. Khi anh không đủ trí tuệ để độc lập và chủ động thì anh sẽ sai. Anh sai mà anh lại tự do thì anh đi đến chỗ chết nhanh hơn, và chính vì thế nên có một kẻ thứ ba đứng ngoài bảo "ta phải lãnh đạo nó". Chính sự dốt nát, sự sai lầm, sự thiếu hụt trí tuệ làm xuất hiện một đối tượng có nhu cầu cung cấp các dịch vụ lãnh đạo.

Hỏi: Nghệ thuật lãnh đạo của ông có gì khác so với số đông doanh nhân hiện nay?

Trả lời: Tôi khác. Thứ nhất là tôi rất khắt khe và nếu nhìn ngoài thì tôi khắt khe như một kẻ độc tài. Nhưng tôi khắt khe trong việc cần phải xây dựng một tiêu chuẩn để tất cả những người cộng tác với tôi trở thành những con người hoàn chỉnh, phải có hiểu biết, phải đọc, phải nắm bắt được tình thế, phải biết quan tâm đến cấp dưới, bởi vì chúng tôi làm một nghề bắt buộc phải sáng tạo, bắt buộc phải hiểu biết, bắc buộc phải tiếp cận với khoa học hàng ngày. Tôi quản lý rất khắt khe thái độ của các cán bộ của tôi đối với các cấp dưới của họ và tôi cũng khắt khe với chính họ. Tôi là người chia sẻ lợi ích, tôi không phải là một nhà kinh doanh với quan niệm ngoài lương thì cái còn lại là của tôi. Tôi biết chia sẻ các lợi ích mà công ty này mang lại cho các đồng nghiệp gần gũi của mình.

Tôi không biết có khác không vì tôi cũng không quan tâm lắm đến các doanh nghiệp khác. Con trai tôi đi học ở nước ngoài 10 năm trở về, khi quan sát sinh hoạt ở công ty của tôi nó nói rằng "Cái mà bố tạo ra được là một tập thể rất đầm ấm". Chúng tôi ở đây càng hiểu biết càng tốt, cấp dưới càng giỏi thì tôi càng thích. Rất nhiều nhà lãnh đạo rất sợ khi cấp dưới giỏi, cấp dưới mà bắt vở được cái ngốc nghếch hay cái ngu dốt của lãnh đạo thì chỉ có nước đi, nhưng ở chỗ chúng tôi thì chỉ có sự dốt nát về mặt trí tuệ bị lên án thôi, còn sự giỏi giang được biểu dương. Trong công ty chúng tôi có một số tạp chí nội bộ do anh em viết và mỗi một số đều có bình bầu bài viết xuất sắc nhất và có tiền thưởng. Tôi khuyến khích mọi người đọc và viết. Trong vòng mấy năm, anh em đã viết được một bộ tổng tập hơn 4000 trang. Chúng tôi xây dựng được một thư viện, có lẽ là một trong những thư viện tư nhân khá lớn khoảng gần 10 nghìn đầu sách có lựa chọn. Chúng tôi có những tủ sách về kinh tế, về luật học, khoa học xã hội, văn học, triết học để phục vụ anh em đọc, thư giãn và nâng cao sự hiểu biết. Nếu là một nhà kinh doanh ích kỷ thì đấy là lợi ích của tôi và tôi sẽ không mua sách mà chuyển nó thành tiền.

Hỏi: Trong các tiêu chuẩn đánh giá doanh nhân hiện nay có quá nhiều danh hiệu, nhiều chuẩn mực chạy theo các con số như lợi nhuận, doanh thu v.v. Theo ông, chuẩn mực nào để đánh giá doanh nhân một cách đầy đủ nhất?

Trả lời: Chỉ nguyên chúng ta có ý đồ đánh giá doanh nhân là đã sai rồi. Bởi vì ý đồ sai cho nên việc tổ chức ra nó cũng sẽ sai thôi. Tại sao người ta lại phải đánh giá doanh nhân? Đã bao giờ người ta đánh giá các nhà chính trị chưa? Khi đưa ra ý đồ đánh giá ấy thì người ta phải tổ chức nó bằng trăm cách, nghìn cách và người ta buộc phải bịa ra những tiêu chuẩn.

Tôi nghĩ rằng thế giới người ta cũng đánh giá nhưng họ đánh giá tài sản, đánh giá các công nghệ được sáng tạo ra trong một xí nghiệp, trong một tập đoàn xí nghiệp chứ không đánh giá, phân loại doanh nhân trên qui mô toàn xã hội như chúng ta. Và phải nói thật rằng các doanh nhân cũng rất thông minh, họ tận dụng điều ấy để quảng cáo cho chính mình. Và để quảng cáo cho chính mình thì họ phải đưa ra những chỉ tiêu, những khía cạnh có giá trị quảng cáo. Thực ra đấy là một sự hợp tác có chất lượng nhạy cảm của doanh nhân đối với các hoạt động chính trị của nhà nước, cái đấy hoàn toàn không phản ánh gì cả và tôi thấy không nên mất thì giờ nghĩ về những chuyện ấy.

Gần đây người ta còn nói rằng phải xây dựng văn hoá kinh doanh, văn hóa doanh nhân, tôi nói rằng văn hóa giống như phù sa sông Hồng, anh không thể lên kế hoạch để xây dựng những lớp phù sa ấy được. Văn hoá là cái còn lại sau một chu trình vận hành của cuộc sống. Văn hóa là cái vết của những hành động của con người trên cuộc sống. Chúng ta thấy vết trườn của con rắn trên mặt đất khác với vết bò của con kỳ đà, và vết bò của con kỳ đà thì khác với vết chân đi của con hổ. Văn hoá là vết của các sự vật, các đối tượng để lại trong đời sống, vì thế không thể xây dựng văn hoá được.

Hiện nay chúng ta có rất nhiều biển hiệu gia đình văn hoá, khu phố văn hoá, công ty văn hoá v.v, đâu đâu cũng thấy. Tôi thấy rằng việc tiêu tốn bao nhiêu tiền cho những chuyện như vậy không quan trọng, cái quan trọng chính là nó tố cáo trên qui mô xã hội sự ngốc nghếch của những người đề ra chuyện ấy. Đấy mới là nỗi đau. Bây giờ sáng dậy người ta cởi trần, mặc quần xà lỏn, vừa đi vừa khạc nhổ từ trong những con phố mà bên trên treo biển hiệu khu phố văn hoá, rất kỳ quặc. Phải nói thật là chúng ta có rất nhiều chuyện kỳ quặc và rất nhiều người lên án về sự tốn kém của nó, nhưng tôi không quan tâm đến chuyện tiền mà quan tâm đến chuyện nó thể hiện một cách đại trà trên qui mô xã hội về sự ngốc nghếch.

Hỏi: Là một người phản biện những quan niệm thuộc về số đông như vậy, ông có cảm thấy cô đơn không?

Trả lời: Không. Tôi phản biện chính mình thì làm sao lại cô đơn được? Tôi không tách mình ra khỏi sự sai sót vốn có của cuộc sống nói chung. Và nếu như cá nhân tôi không sai thì tôi vẫn có trách nhiệm với sự sai sót của những người bên cạnh. Tôi không phải là kẻ đứng bên ngoài, không phải là kẻ đối lập, cũng không phải là kẻ tự nhấc mình ra khỏi bầy đàn của mình, cho nên tôi không thấy cô đơn gì cả. Và cách nhìn của tôi là cách nhìn lạc quan, cho nên tôi mới nói rằng sự vụng về, sự ngượng ngùng của một bầy người đang dịch chuyển dần đến sự phát triển, đến văn minh như một tất yếu.

Hỏi: Theo ông, văn minh có gì khác so với văn hoá không?

Trả lời: Văn minh là trình độ phát triển, còn văn hoá là đặc trưng hay còn gọi là bản sắc của cá nhân, của cộng đồng. Bản sắc cá nhân được gọi là cá tính, còn bản sắc cộng đồng được gọi là văn hoá.

Hỏi: Vậy văn minh và văn hoá có phát triển thuận chiều với nhau không?

Trả lời: Không, nó không liên quan gì đến nhau mà nói rằng thuận chiều hay trái chiều. Ví dụ như ở Tây Nguyên, người Ba Na, người Ê Đê, người Gia Rai chưa văn minh, nhưng chất lượng văn hoá của họ đậm đặc đến mức người ta thấy ngay từ đầu làng. Những người thiểu số là một ví dụ để mô tả một cách xuất sắc, rõ rệt sự khác biệt giữa văn hoá và văn minh. Văn hoá giúp phân biệt dân tộc này với dân tộc khác, tính cách con người này với con người khác. Còn văn minh giúp phân biệt mức độ phát triển này với mức độ phát triển khác.

Hỏi: Nhiều người lo ngại rằng sự phát triển của văn minh sẽ làm huỷ diệt hoặc tổn hại bản sắc. Ông nghĩ sao về vấn đề này?

Trả lời: Bản sắc không phải là một đại lượng cố định. Bản sắc là những giá trị còn lại trong quá trình phát triển và vì thế bản sắc thay đổi cùng với sự phát triển.

Tôi lấy ví dụ, bạn đi trên biển, đi qua đảo Sơn Trà và con tàu càng ngày càng xa đảo Sơn Trà, nghĩ rằng thôi thế là mất đảo Sơn Trà rồi vì mình không nhìn thấy nó nữa. Thế thì chúng ta nhảy xuống để leo lên ngồi trên đảo Sơn Trà hay là tiếp tục du hành cùng với con tàu? Con người là quá trình dịch chuyển và phát triển, nó đi qua các kỷ niệm được gọi là văn hoá và nó sinh ra một cảm giác luyến tiếc những bản sắc mình đã có trong giai đoạn cũ mà quên mất những bản sắc mới đang hình thành trong chính quá trình dịch chuyển ấy. Phát triển càng nhanh thì cái cảm giác mất mát bản sắc càng lớn và khi nào hiểu được nguyên lý như vậy thì chúng ta sẽ thấy rằng cái sự rối loạn bản sắc là một chỉ tiêu để đo tốc độ phát triển. Vậy chúng ta cần phát triển hay cần bản sắc? Chúng ta mất cái bản sắc này thì chúng ta có bản sắc khác. Bản sắc là gì? Bản sắc là lớp cặn của đời sống, mỗi một giai đoạn phát triển người ta có những lớp cặn mới và cái đó là những trạng thái khác nhau của sự phát triển mang chất lượng văn hóa.

Hỏi: Nếu chia sẻ với thế hệ trẻ khi họ muốn tìm lý luận triết học để giải mã được con đường mình tìm kiếm thì ông sẽ nói điều gì?

Trả lời: Tôi nghĩ rằng họ hãy sống một cách tự nhiên. Tất cả mọi người hãy sống một cách tự nhiên, hãy sống một cách thư thái, một cách bình lặng và tích cực. Sự yên tâm và bình lặng về mặt tinh thần sẽ tạo điều kiện tốt cho sự lắng đọng các chất lượng mang tính bản sắc của mỗi một thời đại khác nhau lên việc hình thành các giá trị văn hoá của một cá nhân.

Hỏi: Hiện nay các loại sách triết học cũng như sách về mặt tâm linh tự nhiên được giới trẻ quan tâm rất nhiều. Ngay cả các cuốn sách của ông tôi cũng thấy có rất nhiều người trẻ đọc và chia sẻ với ông. Vậy có phải giới trẻ hiện nay thiếu tư duy triết học nền tảng?

Trả lời: Tất cả các cộng đồng dân tộc nói chung đều thiếu triết học cả, vì triết học là một đối tượng rất khó đối với bất kỳ người đọc hay người nghiên cứu nào.

Chúng ta có cả tỷ con người theo đạo Phật, nhưng để thuộc kinh sách của Phật giáo thì số ấy chỉ được 1% thôi. Chúng ta có hàng dăm bảy trăm triệu người theo Thiên chúa giáo, nhưng cũng chỉ khoảng 10% số ấy thuộc kinh thánh thôi. Nhưng tôn giáo không lệ thuộc vào kinh sách mà lệ thuộc vào lòng tin của con người và những lợi ích tinh thần mà con người nhận được từ tôn giáo. Vì thế cho nên việc đi tìm chất lượng hợp lý trong hành vi của mình dẫn con người đến triết học chứ không phải triết học dẫn con người đến sự hợp lý. Hegel nói một câu rất hay mà tôi đưa vào làm đề tựa trong quyển sách xuất bản gần đây của tôi, đó là "Triết học là thời đại của nó đã phát triển đến trình độ tư tưởng".

Cho nên con người đi tìm sự hợp lý của các hành động thì đến với triết học chứ không phải triết học dẫn người ta đến sự hợp lý, nhưng vì sốt ruột nên mới có hiện tượng người ta dùng triết học để dẫn con người đến sự hợp lý. Việc truyền bá chủ nghĩa Marx ở một loạt quốc gia là một biểu hiện rực rỡ nhất để chứng minh việc người ta sử dụng triết học để hướng dẫn con người, và kết quả là gì thì chúng ta biết rồi. Cho nên tôi xin nhắc lại là phát triển lành mạnh là đi tìm sự hợp lý của các hành động dẫn con người đến triết học chứ không phải triết học dẫn con người đến sự hợp lý của các hành động.

Con người phải sống một cách tự nhiên chứ không phải là sống đúng theo các tiêu chuẩn triết học. Chúng ta biết rằng Khổng giáo đã làm ngu muội hàng tỷ con người ở khu vực của chúng ta, đấy là một ví dụ nữa về việc sử dụng triết học để hướng dẫn hành vi con người và nó làm xuất hiện hiện tượng các cá nhân biến mất. Các cá nhân đi tìm lẽ phải, đi tìm chân lý, đi tìm sự hợp lý thì quá trình đi tìm ấy dẫn người ta đến triết học, và các triết học ấy khác nhau và phù hợp với nhận thức, thói quen hoặc trình độ văn hoá của mỗi cá thể chứ người ta không dùng triết học để hướng dẫn con người, nhất là hướng dẫn bằng công cụ nhà nước thì càng sai.

Hỏi: Ông có thể kể về quá trình sống, chia sẻ và đi tìm con đường triết học của mình?

Trả lời: Có lẽ tôi là một trường hợp không phổ biến lắm, trong thiên tư của tôi triết học hay khoa học nhân văn trở thành một khát vọng từ tấm bé. Khi tôi bắt đầu nhận ra tôi là một con người thì tôi đã có cảm giác là tôi để ý đến chuyện này. Tôi thích nghe ngóng về chuyện này khi cha tôi trò chuyện với bạn hữu hoặc nghe các thầy trò chuyện với nhau khi đi học. Bài giảng có khi tôi không nghe chăm chú bằng những chuyện các thày nói với nhau liên quan đến chính trị hoặc triết học. Đấy là một bản năng.

Đến bây giờ, ở tuổi này tôi vẫn đọc những chuyện ấy một cách hứng thú như người ta làm thơ hay đọc thơ vậy. Đấy là đặc điểm riêng của tôi về chuyện ấy. Tôi đi tìm nó, nghiên cứu nó một cách rất kiên nhẫn từ năm tôi 15-16 tuổi cho đến bây giờ ngoài 60 rồi. Tôi không đếm được, không thống kê được, nhưng phải nói rằng tôi đọc và suy nghĩ hàng ngày rất kiên nhẫn. Khi đọc một bài trên báo Nhân Dân tôi cũng có thể rút ra được một kết luận triết học. Tôi không biết kể lịch sử tìm đến triết học của tôi như thế nào bởi vì nó là cuộc sống của tôi hàng ngày, tôi không thể thiếu nó được. Do sự tự giác như vậy và cũng có kinh nghiệm về phương diện này cho nên tôi nhìn thấy các khuyết tật của các chính sách, của các nhà chính trị, của các cán bộ của tôi rất nhanh, có thể tính từng giây.

Hỏi: Tôi có quen biết anh Bùi Văn Nam Sơn, tôi thấy lớp của anh ấy có rất nhiều bạn trẻ đi học lại những kiến thức triết học nền tảng. Tôi thấy rằng ở đây đặt ra vấn đề là dường như người ta quá khủng hoảng về tìm kiếm con đường tương lai của mình?

Trả lời: Chưa đến mức ấy đâu chị. Nếu vì sự khủng hoảng trong việc tìm kiếm con đường của mình mà người ta phải đi học triết học thì phải nói thật rằng đất nước mình may rồi. Anh Bùi Văn Nam Sơn là một người khá nổi tiếng. Tôi rất nể anh ấy và xem đấy là dịch giả triết học tốt nhất Việt Nam hiện nay và nói một cách đứng đắn thì nhất khu vực Đông Nam châu Á. Tôi có tất cả các tác phẩm dịch của anh Bùi Văn Nam Sơn.

Tôi không tin là ở Việt Nam có một phong trào mê mải triết học đến mức người ta học nó một cách chăm chú để giải thoát mình ra khỏi sự bế tắc. Trong lịch sử Việt Nam cũng chưa có điều ấy chứ không phải chỉ bây giờ. Phải cảnh giác với những câu chuyện như vậy. Và nếu như có những lớp học mà người ta mê mải đi tìm chân lý bằng Kant thì chúng ta sẽ không tìm được gì cả. Có một sai lầm cơ bản như thế này, trong khi hầu hết các nhà triết học kinh điển khi viết các tác phẩm là họ giải quyết các vấn đề của thời đại của họ thì chúng ta biến các tác phẩm ấy thành các giáo trình để học thuộc nó. Người ta chỉ có thể trở thành nhà triết học thật khi tự giao cho mình nhiệm vụ giải quyết các vấn đề ở thời đại của mình chứ không phải thuộc sách của thời đại trước. Người Việt không có triết học vì chúng ta chưa xem triết học là công cụ để giải quyết những đòi hỏi của đời sống. Nếu các nhà triết học mà không đặt ra nhiệm vụ giải quyết các bài toán thật của cuộc sống thì không thể trở thành nhà triết học thật được, chỉ trở thành người học triết mà thôi.

Hỏi: Theo ông sống tự nhiên có khó không?

Trả lời: Sống tự nhiên khó. Sống tự nhiên chính là cách sống có chất lượng triết học cao nhất, bởi vì mọi triết học có cao đến mấy cũng chỉ hội tụ đến tự nhiên mà thôi. Đi học triết không phải con đường trở thành nhà triết học. Triết học chỉ là nắm cơm ăn đường của người hành hương đến chân lý chứ nó không phải là chân lý.

Hỏi: Ông có thể nói một chút về gia đình không? Đối với những người con của mình, ông muốn dành cho họ điều gì?

Trả lời: Tôi nghĩ rằng là một người cha tôi có ba nhiệm vụ đối với con cái, trong đó quan trọng nhất là bảo tồn được sự nguyên vẹn của gia đình, đấy như là một ngôi nhà, một cái vỏ, một cái tổ, một cái hang để con người trong những lúc khó khăn nhất có nơi cư ngụ cả về vật chất lẫn tinh thần. Đấy là nhiệm vụ số một của người cha. Thứ hai là xây dựng kho lương thực dự trữ để phục vụ quá trình phát triển của các con tôi. Thứ ba là xây dựng một kho kinh nghiệm có chất lượng tinh thần để trang bị cho con ở những bước đầu chập chững.

Đấy là nghĩa vụ của một người cha, một người chồng. Và tôi không để cho các con tôi nương tựa vào các giá trị của tôi mà chúng phải tự tạo ra các giá trị của mình. Tôi không bao giờ cô các giá trị của mình trở thành ra một tấm, một món để con tôi đút túi, tôi không bao giờ giới thiệu nó làm quen với ai để nó có thể kiếm việc. Tôi tự cấm mình làm những việc như vậy đối với con cái. Tôi có thể tài trợ cho con cái trong quá trình học hành, nghiên cứu, trưởng thành bao lâu cũng được, tôi đủ điều kiện để làm chuyện ấy và nếu như chúng xem quá trình học tập là đến 50 tuổi thì tôi cũng sẵn sàng cung cấp. Nhưng sự nghiệp của con tôi là do nó hoàn toàn, không một lời giới thiệu, không một cuộc làm quen, không có sự đảm bảo nào của tôi đối với sự nghiệp riêng của chúng. Đấy là quan niệm của tôi.

Cách đây nhiều năm, khi tôi còn là một nhân viên quèn thì vợ tôi được cử làm Trưởng ban Bạn đọc của báo Phụ nữ Việt Nam. Cô ấy rất áy náy khi chồng là nhân viên quèn còn vợ là trưởng phòng, vì vào thời ấy trưởng phòng là có bìa C và ra ngoài đường là vênh vang lắm rồi. Cô ấy hỏi tôi xem ý tôi thế nào. Tôi bảo "Tại sao phải hỏi ý kiến? Đấy là việc của em". Phải nói thật là với tư cách là một con người, tôi không thấy thua kém ai nên tôi chẳng bao giờ tự ái lặt vặt. Vợ tôi có là trưởng phòng hay là Phó chủ tịch nước thì đối với tôi vẫn vậy thôi. Ví dụ anh Bùi Văn Nam Sơn là một người nghiên cứu triết học có chất lượng hàng đầu ở Việt Nam hiện nay, thử hỏi anh ấy xem khi đã đọc Kant, đối thoại với Kant ở trong đầu rồi thì anh ấy thấy những địa vị, kể cả địa vị cao nhất về mặt nhà nước có giá trị gì? Tôi chắc chắn là anh ấy cũng sẽ có câu trả lời giống tôi. Khi đã trở thành nhà tư tưởng rồi thì mọi địa vị đều bé bằng cái kẹo. Chưa có một người thầy nào cảm thấy mình bé hơn học trò, dù người học trò ấy là Chủ tịch nước, chỉ trừ những người không làm thầy thật được cho nên vừa làm thầy vừa run thì có cảm giác ấy. Tôi thì không, tôi chưa bao giờ làm thầy ai cả, nhưng tôi cũng chẳng thấy tôi bé hơn so với bất kỳ cái gì cả, tôi không có nhu cầu so sánh kiểu ấy.

Hỏi: Trong tình yêu ông là một người thế nào?

Trả lời: Tôi có 2 quỹ tình yêu. Cái phần tình yêu dành cho gia đình của tôi thì đấy là đại lượng bất di bất dịch và không ai bớt xén được một xu nào ở đấy, nó chỉ có thể chuyển từ dạng này sang dạng khác hay từ cảm giác này sang cảm giác khác. Một lần trả lời phỏng vấn của đài truyền hình, tôi có nói rằng khi người ta đã ở một độ tuổi nào đó rồi thì phải biết cái công nghệ chuyển hoá từ tình yêu đối với một người đàn bà trở thành sự kính trọng mẹ của các con mình. Đấy là một cái quỹ rất minh bạch và tôi không bớt xén. Phần còn lại là một cái quỹ thanh khoản để tôi có thể biểu lộ cảm xúc của mình trước những vẻ đẹp tôi gặp được ở trong đời. Nếu bao nhiêu tình yêu tôi dồn hết cho vợ rồi, ra đường tôi không biết thưởng thức cái gì nữa thì tôi cũng không có cả tình yêu của vợ.

Những người chồng đưa lương cho vợ nhưng thỉnh thoảng vẫn mở tủ rút tiền ra tiêu đấy chứ. Tôi thì không rút từ trong cái quỹ ấy và tôi tiến bộ hơn nhiều người khác là ở chỗ ấy.

Hỏi: Viết cũng là một tình yêu lớn của ông?

Trả lời: Đúng thế. Nghĩ về những vấn đề của thân phận và đời sống con người là tình yêu lớn nhất của tôi.

Hỏi: Ông có thể nói một chút về các con của mình?

Trả lời: Phải nói rằng, các con tôi là những cậu bé con nhà giàu, đấy là một thực tế. Nhưng chúng rất khiêm tốn, nhân hậu với mọi người và với mọi quan hệ, sẵn sàng giúp đỡ, chia sẻ với bạn bè, ham hiểu biết và hiểu biết nhiều hơn cái nó cần trả bài cho cuộc sống, và yêu nghệ thuật. Tôi hài lòng về chúng.

Hai cậu con trai của tôi đều đang đi học cả. Đứa lớn đã tốt nghiệp hai đại học rồi, hiện đang ở nhà để chuẩn bị đi Mỹ làm tiến sĩ, đứa thứ hai đang học dở đại học thứ hai ở Anh. Một cậu 25 tuổi, một cậu 22 tuổi. Chúng đều dễ thương, khiêm tốn, không ăn chơi theo nghĩa thông thường nhưng tất cả những trò chơi sang trọng thì chúng đều biết cả, đánh golf, làm thơ, đọc Shakespeare như một chuyên gia, sống vui vẻ và phải nói rằng rất sợ bố mẹ quấy rầy, rất sợ được chăm sóc. Cái duy nhất chúng cần lúc này là bố mẹ đưa tiền, đưa xong rồi thì tức là bố mẹ đã hoàn thành nhiệm vụ, khỏi cần lo gì.

Hỏi: Tức là ông đã chuẩn bị cho con một nền tảng để chúng có thể sử dụng đồng tiền một cách chủ động?

Trả lời: Có lẽ là như thế. Tôi nghĩ là không bao giờ các cháu tiêu pha bên ngoài quy định của mẹ chúng. Việc tài chính quy định thế nào là của mẹ chúng, tôi không can thiệp và tôi không tước bỏ quyền lãnh đạo của mẹ chúng đối với chúng. Bây giờ bố có tiền, bố cho nhiều tiền và mẹ chẳng là gì cả là không được.

Hỏi: Ông có suy nghĩ về chuyện được mất trong đời?

Trả lời: Có chứ, luôn luôn, vì một trong những nội dung quan trọng nhất trong tư duy của con người chính là lợi ích. Người không làm chủ các tư duy lợi ích, không thiết kế được công nghệ tư duy lợi ích và không biến tư duy lợi ích thành một nghệ thuật sống là người không có bản lĩnh trên thực tế. Tôi là người rất làm chủ mình trong tư duy lợi ích, vì thế tôi luôn ung dung, không phải lo nghĩ về chuyện đấy. Ví dụ tôi kiếm được 100 đồng thì 40 đồng dành cho vợ để tiêu, 40 đồng nữa dành cho vợ để đầu tư hoặc để dành, còn tôi tiêu 20 đồng.

Hỏi: Cái mất lớn nhất mà ông từng trải qua là gì?

Trả lời: Tôi mất một đứa con gái, nếu còn sống thì năm nay cháu 35 tuổi. Cháu bị bệnh máu trắng và mất năm 1985, lúc cháu 12 tuổi. Đấy là mất mát lớn nhất mà đôi khi tôi tưởng mình không thể vượt qua được, nhưng rồi những thằng bé này lớn lên, chúng động viên tôi và làm cho cuộc sống của tôi dần dần cũng nguôi ngoai. Nhưng phải mất một thời gian rất lâu, hàng chục năm mới nguôi ngoai được. Cái nhược điểm lớn nhất của tôi là yêu con.

Hỏi: Sau cái chết của đứa con, ông tìm thấy điều gì trong con đường đi của mình?

Trả lời: Không. Tôi là người có ý thức về con đường đi của mình một cách rất ổn định. Về bản chất tôi là một nhà khoa học, đã từng là chủ nhiệm một bộ môn nghiên cứu về cái mà người ta đang làm hỏng ở Thủ Thiêm, đó là bộ môn nền móng và công trình ngầm của Viện Khoa học Giao thông Vận tải. Khi con tôi bị bệnh, tôi phải hy sinh, tôi bỏ việc, bỏ sự nghiệp ấy để chữa bệnh cho cháu 2 năm. Không có tiền chữa bệnh cho con thì mất con nên tôi phải ra ngoài kiếm tiền và tạo ra công ty này.

Phải nói rằng, tôi kiếm tiền rất nhanh và khá thành công về chuyện ấy. Có thể nói 15-16 năm trước đây tôi là người thành công nhất trong việc kiếm tiền bằng lao động trí khôn ở Việt Nam. Nhưng bản chất tôi vẫn là một người làm khoa học, và tôi quay trở về với khoa học cách đây khoảng 10 năm, nhưng tôi chuyển sang nghiên cứu về xã hội học, chính trị học và cũng viết được một số tác phẩm. Sự mất con của tôi làm tôi tổn thương, mất mát về tình cảm chứ không ảnh hưởng nhiều lắm đến việc nghiên cứu khoa học.

Ở một nước đang bế tắc về hệ thống tư tưởng như Việt Nam, nếu một người định làm khoa học thật thì sớm hay muộn cũng đều dẫn đến triết học hoặc chính trị. Ví dụ, có nhiều giáo sư toán học của chúng ta nổi tiếng không phải với tư cách một nhà toán học mà như những nhà lý luận về các vấn đề chính trị - xã hội. Một cách tự nhiên, trong các dân tộc lạc hậu và các dân tộc đang bế tắc, mọi nhà khoa học đều tiệm cận đến việc đi tìm con đường giải thoát con người và dân tộc của họ ra khỏi sự bế tắc về mặt lý luận. Tôi không phải là ví dụ điển hình, nhưng là một trong những ví dụ như vậy. Tuy nhiên nói gì thì nói, trước đó phải có phẩm chất của nhà khoa học. Phương pháp luận khoa học, cảm hứng khoa học, thiên tư về khoa học là cái tối thiểu phải có. Những người không có chất lượng khoa học có thể làm một kỹ sư rất giỏi, hoặc một luật sư rất giỏi nhưng không bao giờ trở thành một nhà khoa học được.

Hỏi: Liệu có xu hướng khoa học tự nhiên tiệm cận tới các khoa học xã hội không, thưa ông?

Trả lời: Về nguồn gốc, vốn dĩ nó là một. Leonardo Da Vinci vừa là một nhà nghệ thuật, vừa là một nhà tư tưởng, vừa là một nhà kỹ thuật. Newton vừa là một nhà triết học, vừa là một nhà khoa học tự nhiên, vừa là một nhà toán học. Hegel cũng là người như thế, Kant cũng là người như thế.

Chúng ta đang ở giai đoạn mà các khoa học đang hội tụ đến sự hợp lý về mặt tư tưởng, bởi vì sau khi phát triển theo lối phân chia thì các khoa học mất dần sự phải chăng về mặt triết học và nó tạo ra cả thành tựu lẫn tai họa. Để cứu tình trạng các khoa học tự phát tán các năng lực phá hoại của nó thì nó lại hội tụ lại để điều hòa, còn vốn dĩ về nguồn gốc là nó xuất phát từ một điểm. Galilei hay Bruno đều là những nhà tư tưởng chống lại tôn giáo. Người ta ép Galilei nói rằng trái đất vuông, ông ấy phải nói để thoát chết, nhưng sau khi xuống khỏi giàn thiêu thì ông ấy bảo "dù sao đi nữa, trái đất vẫn quay". Nếu là nhà khoa học thật thì sự hội tụ đến những sự hợp lý có tính chất tư tưởng là tất yếu của sự phát triển cá nhân.

Hỏi: Ông có nghĩ Việt Nam đang thiếu các nhà tư tưởng không?

Trả lời: Một trạng thái rất tự nhiên của nhân loại là lúc nào cũng thiếu các nhà tư tưởng. Nhưng sự thiếu của các nhà tư tưởng có hai nguyên nhân.

Thứ nhất, thiếu một cách tự nhiên vì tư tưởng là một loại hình hoạt động vô cùng khó. Tức là năng lực của con người thiếu một cách tự nhiên để đáp ứng các yêu cầu về sự phát triển các tư tưởng.

Thứ hai, trong một số chế độ chính trị thì nhà nước chủ động làm thiếu các nhà tư tưởng. Vốn dĩ trong tự nhiên đã thiếu rồi, nhưng trong một số nhà nước thì sự thiếu ấy không chỉ là thiếu tự nhiên mà còn thiếu nhân tạo. Tuy nhiên, sự thiếu một cách phi tự nhiên bằng nhà nước ấy không phải là thiếu về số lượng mà thiếu chất lượng, vì nhiều nhà nước sản xuất ra vô khối các nhà tư tưởng để hướng dẫn con người đến chỗ chết.

Hỏi: Vậy theo ông, bản chất của hạnh phúc, của những giá trị sống là gì?

Trả lời: Trong quyển sách "Cội nguồn cảm hứng" của tôi, chương hay nhất, chương có nhiều người đọc trên chungta.com là chương viết về hạnh phúc. Trong đó tôi nói rằng bản chất của hạnh phúc là con người sử dụng được những năng lực tự nhiên của mình để tạo ra sự thịnh vượng và tạo ra tương lai của sự thịnh vượng. Và hạnh phúc bền vững chính là hạnh phúc được xác lập trên cơ sở con người có được bản lĩnh để duy trì cảm giác ấy trong bất kỳ điều kiện nào mà con người nhận thức đúng.

Khái niệm hạnh phúc của tôi hơi khác so với những định nghĩa hay những quan niệm thông thường rằng hạnh phúc đơn giản là sự thỏa mãn. Nếu để xác lập một mối liên hệ giữa hạnh phúc và sự thỏa mãn thì tôi cho rằng hạnh phúc là năng lực biết thưởng thức và gìn giữ cho bền vững tất cả những gì tạo ra sự thỏa mãn, và phát triển chính là phá vỡ mọi sự thoả mãn đơn giản.

Hỏi: Ông đã thực sự hạnh phúc chưa?

Trả lời: Câu hỏi ấy rất khó trả lời. Suy ra cho cùng, nếu ngày mai tôi không tìm được cảm giác hạnh phúc hơn ngày hôm nay thì tức là tôi bất hạnh. Nếu tôi trả lời rằng tôi đang rất hạnh phúc thì tức là tôi sai. Tôi đang đi tìm kiếm chất lượng của cái hạnh phúc ngày mai của tôi bằng cái hôm nay của tôi. Và phải nói thật rằng, hạnh phúc lớn nhất của con người là không buộc phải để ý đến nó. Người ta bảo rằng mỗi một người đều có một trái tim, nhưng khi người ta để ý rằng mình có một trái tim thì tức là trái tim ấy bị bệnh. Mỗi một người đều có hạnh phúc và khi người ta bắt đầu để ý đến hạnh phúc của mình thì tức là lúc ấy hạnh phúc đã bắt đầu méo.

Hỏi: Làm thế nào để một nhà triết học có thể sống hồn nhiên như thế được?

Trả lời: Tất cả các nhà triết học đều hồn nhiên, vì kẻ hồn nhiên nhất là kẻ biết được các tất yếu. Các nhà triết học là những người được trang bị công cụ để biết rõ hơn người khác về tính tất yếu của những gì xung quanh mình, và do đó họ cảm thấy họ yên tâm và họ hạnh phúc. Nếu một nhà triết học mà không yên tâm về mình, không hạnh phúc thì không phải là nhà triết học. Đừng nhầm lẫn về sự cau có, sự chau mày, sự vặn vẹo, sự trăn trở của họ là sự bất hạnh. Không phải đâu, đấy chính là hạnh phúc, hạnh phúc đang cuộn sóng trong tâm hồn những nhà hiền triết. Vì nhiệm vụ của họ là chỉ ra hạnh phúc cho người khác cho nên họ phải có kinh nghiệm về hạnh phúc. Huy Cận có bài thơ "Các vị La Hán chùa Tây Phương" mô tả trạng thái vặn vẹo của triết học mà nhiều người cho là không hay nhưng tôi thích:

Các vị La hán chùa Tây Phương
Tôi đến thăm về long vấn vương
Có phải nơi đây là xứ Phật?
Mà sao ai nấy mặt đau thương

Mặt đau thương đấy nhưng họ có đau thương đâu. Sự đau thương của xứ Phật khác với sự đau thương của Huy Cận. Hay nói cách khác, Huy Cận không đủ kinh nghiệm để hóa thân vào để cảm nhận sự đau thương của các vị La hán. Tôi đã từng mời anh Lê Bá Khánh Trình, một nhà toán học, chủ nhiệm khoa Toán của trường Đại học Sư phạm TP Hồ Chí Minh đến dạy con tôi. Anh ấy có đọc bài của tôi và cũng thích nên nhận lời. Hôm thì vợ áp tải đến, hôm thì mẹ áp tải đến. Tôi mời anh ấy đi ăn thì vợ ngồi bên cạnh cầm cái khăn cho anh ấy, ai nhìn vào một người đàn ông như thế cũng đều thấy giống như một cậu "em chã", nhưng anh ấy không thấy điều ấy vì trong tâm hồn anh ấy là những đường cong tuyệt mỹ của toán học. Làm sao những người bán cháo quẩy lại có thể hiểu được cái hạnh phúc của một nhà toán học? Tôi nói rằng bài thơ ấy hay không phải vì bản thân nó hay mà vì nó phản ánh được một sự thật, đó là sự không tiếp cận nổi của một số người đối với trạng thái tôn giáo, đối với trạng thái tinh thần cao cả của con người.

Hỏi: Anh có tin vào năng lực tâm linh không?

Trả lời: Tôi luôn luôn tin rằng có cái gì đó không phải là ma mà là những dòng năng lượng tinh thần của con người. Những năng lượng tinh thần ấy xuất hiện trong những phút lao động thần thánh của con người, và những phút lao động thần thánh ấy tạo ra tất cả những gì vĩ đại để lại cho nhân loại. Tôi cho rằng tất cả các tác phẩm vĩ đại mà nhân loại đang có đều là kết quả của sự giao lưu giữa tác giả và thần thánh. Thần thánh được hiện hình dưới dạng các xung lượng tinh thần mà con người có trong những phút lao động xuất thần. Tôi đôi lúc cũng cảm thấy mình có điều ấy.

Hỏi: Ông tiếp nhận năng lượng ấy như thế nào?

Trả lời: Một cách không biết. Trong quyển "Suy tưởng" tôi có nói rằng thiên tài là một thứ mà người cuối cùng biết về nó chính là người sở hữu nó. Còn ở chúng ta thì có rất nhiều người biết trước về thiên tài của mình, thậm chí còn thiết kế ra nó. Có thể nói trạng thái thần thánh ấy là trạng thái siêu dẫn về mặt thông tin. Khi mà con người rơi vào trạng thái mà các điện trở gần như bằng không trong các hệ thống dẫn thì nó tạo ra những liên kết kỳ lạ và đấy là sự sáng tạo. Con người mà chịu ảnh hưởng của nhiều tạp âm, nhiều tạp vọng, không tập trung nổi vào một công việc thì không bao giờ có phút xuất thần cả và trở thành những người lao động mà Marx định nghĩa là những người lao động chân chính. "Ba ông hàng da thành một ông Gia Cát Lượng" đấy là công thức điển hình của nền văn hoá vô sản khi định nghĩa về lao động.

Hỏi: Một ngày của ông diễn ra như thế nào?

Trả lời: Tôi dậy vào khoảng 8 giờ hoặc muộn nhất vào 8 rưỡi sáng, tuỳ thuộc vào thời gian đi ngủ buổi tối. Sau đó ăn sáng và dành nửa tiếng gọi cho các đồng nghiệp của tôi để kiểm tra xem bộ máy công ty đang chạy như thế nào, vì dù sao đi nữa cũng phải lo miếng cơm manh áo cho mình và mọi người trước. Từ 9 giờ trở đi, tôi bắt đầu đọc và nghĩ. Buổi trưa tôi ăn cơm cùng với những người lãnh đạo cao cấp trong công ty và chúng tôi điểm lại tất cả những thông tin về tình hình thế giới và Việt Nam trong ngày. Sau bữa trưa, tôi nghỉ đến 2 giờ rồi lại bắt đầu đọc, nghĩ hoặc kiểm tra công việc của công ty. Đến 5 rưỡi chiều tôi lại có buổi điểm tin hẹp hơn và đến 6 rưỡi chiều thì tôi nghỉ ăn cơm. Đến 7 rưỡi tối tôi lại tiếp tục làm việc cho tới khuya.

Hỏi: Có lẽ sự cảm nhận của ông về những chuyển động xung quanh mình rất mạnh?

Trả lời: Đúng. Các dự báo chính trị, dự báo kinh tế của tôi trong 20 năm nay dường như chưa bao giờ sai. Tôi thấy trước sự sụp đổ của Liên Xô. Tôi có gặp Brzezinski ở Hoa Kỳ vào năm 90. Ông ấy hỏi tôi "ông có biết tôi không?". Tôi bảo "có, tôi đọc quyển Great Failure của ông". Ông ấy hỏi "ông thấy thế nào". Tôi trả lời "ông dự báo sau tôi 10 năm". Tôi có gặp tiến sĩ Henry Kissinger vào năm 1995, ông ấy mời tôi và chúng tôi thảo luận về vấn đề toàn cầu hoá. Tôi nói rằng sẽ có một trào lưu bên cạnh toàn cầu hoá về kinh tế là toàn cầu hoá về văn hoá và chính trị và nhiệm vụ của các học giả là nghiên cứu về những vấn đề ấy chứ không phải về toàn cầu hoá kinh tế.

Những năm trước đây tôi lang thang khắp thế giới, chỗ nào có thể liên quan đến Việt Nam, đến những suy ngẫm của tôi là tôi đến và tìm cách gặp gỡ với những đối tượng có thể thảo luận được. Những năm gần đây, với tình trạng thông tin phát triển trên toàn cầu như thế này thì tôi thấy không cần phải đi nữa. Hàng ngày tôi dự báo tình hình, tôi có viết những bài báo chẳng hạn như bài "Con ngựa và cỗ xe kinh tế", "Obama - nhiệm kỳ chống khủng hoảng và tìm triết lý phát triển" và nhiều bài khác để nói những phán đoán của mình. Nhiều phóng viên đến hỏi tôi về chuyện chính sách này, chính sách kia bị chỉ trích là đúng hay sai, tôi bảo rằng tại sao phải mất thì giờ chỉ trích. Gần đây có người hỏi tôi "Anh có băn khoăn gì về vấn đề kinh tế không?". Tôi trả lời rằng "Điều tôi băn khoăn bây giờ không còn là chuyện kinh tế Việt Nam. Điều tôi suy nghĩ bây giờ chính là điều mà đầu thế kỷ XX Hồ Chí Minh suy nghĩ, tức là chúng ta bắt đầu lại phải nghĩ về vấn đề độc lập dân tộc".

Hỏi: Tôi cũng có trao đổi với một số nhà nghiên cứu, họ nói rằng chúng ta mới chỉ giải phóng về mặt chủ quyền lãnh thổ chứ chưa giải phóng toàn diện về mặt con người. Ông có đồng ý về điều đó không?

Trả lời: Vấn đề ấy cách đây hơn chục năm tôi đã có một bài viết đăng trên tạp chí Khoa học và Tổ quốc (Bài báo: Từ thế giới thứ ba đến một thế giới thứ hai rưỡi hay dân chủ hoá như là cuộc giải phóng thứ hai). Trong bài ấy tôi có nói đến cuộc giải phóng nửa vời. Chúng ta thiếu một nửa cuộc giải phóng, đó là chia cái gói tự do mà quốc gia này nhận được từ việc giải phóng dân tộc cho từng người một.

Tôi nghiên cứu về những chuyện như vậy một cách rất có hệ thống. Ai đó có bức xúc này khác nhưng tôi thì không. Những người nghiên cứu triết học không bức xúc, bởi vì nếu không thấy trước được bằng suy tưởng thì không thể nghiên cứu triết học được. Nếu phải bức xúc mới thấy được thì không phải là người nghiên cứu triết học.

Hỏi: Ông đã đề cập đến cuộc giải phóng thứ hai cần thực hiện và đó mới là cuộc giải phóng thực sự. Để đi đến một cái kết cho những vấn đề được trao đổi hôm nay, ông có gì tâm huyết nhất muốn chia sẻ?

Trả lời: Tôi cho rằng món nợ của những người lãnh đạo ở Việt Nam đối với dân tộc này chính là dân chủ hoá xã hội. Dân chủ hoá xã hội là xây dựng một thể chế để bảo vệ và phân bố các quyền tự do đến từng con người một. Đấy là món nợ và là nhiệm vụ chính trị quan trọng nhất của những người lãnh đạo hiện nay.

Nếu việc ấy không được thực hiện bởi họ thì dân tộc chúng ta sớm muộn cũng sẽ đối mặt với một cuộc cách mạng. Mà mọi cuộc cách mạng đều là cơ hội khổng lồ của những kẻ cơ hội. Tôi không chờ đợi một cuộc cách mạng mà tôi kêu gọi những người lãnh đạo hãy chủ động thực hiện tiến trình dân chủ hoá xã hội. Cách duy nhất để dân tộc chúng ta tránh được sự đổ vỡ, sự thất thiệt, sự mất mát là đoàn kết và ủng hộ những người cầm quyền trong quá trình dân chủ hoá xã hội. Đấy là cái kết của những quan điểm chính trị chủ chốt của tôi.

Tôi nghiên cứu về sự phát triển chính trị ở Việt Nam chỉ để đi tìm một lối thoát để dân tộc chúng ta không phải đi qua sự bạo loạn, không phải đi qua cách mạng, bởi vì chúng ta không còn đủ dự trữ cho một cuộc cách mạng nữa. Vì thế chúng ta cần phải huy động toàn bộ sức lực xã hội để tiến hành một cuộc cải cách mà trung tâm của nó là dân chủ hoá xã hội và nhất thiết phải được thực hiện bởi sự tổ chức của những người lãnh đạo đương nhiệm thì mới tránh được những tai họa của một cuộc cách mạng. Thời gian không còn nhiều, nếu không làm nhanh thì rất có thể chúng ta không còn cơ hội để làm nữa. Sự phát triển tiêu cực của đời sống chính trị đã dẫn đến việc nhiều người phải bắt đầu suy nghĩ vềnhững điều Hồ Chí Minh đã nghĩ ở đầu thế kỷ XX, tức là độc lập dân tộc và tự do.

Xin cảm ơn ông!

http://chungta.net/Desktop.aspx/ChungTa-SuyNgam/Van-Hoa/Ban_ve_nhung_gia_tri_song-3/

Tuesday, December 1, 2009

Văn hoá và Tương lai

Báo chí khắp thế giới gần đây nói rất nhiều về thế kỷ XXI như là thế kỷ của văn hoá. Những quan điểm như vậy là không thật đúng. Con người, trên đường đi tìm kiếm chân lý, bỗng nhiên phát hiện ra những khía cạnh khác nhau của sự vật và tuyệt đối hoá nó. Đó thường là khuyết điểm của tính không chuyên nghiệp về mặt tư tưởng. Tôi cho rằng tương lai không phải là của văn hoá, tương lai là của con người với tư cách là một thực thể văn hoá. Trình độ nhận thức của con người đã đạt đến mức con người nhận thấy văn hoá trở thành quan trọng. Đấy chỉ là một trạng thái nhận thức mới của con người về các thành tố tham gia vào quá trình cấu tạo ra cuộc sống của mình.

Nói văn hoá là quyền lực hay tương lai của chúng ta đều không đúng. Văn hoá có tính bền vững của nó. Chúng ta vừa mới bàn về điều này. Văn hoá luôn luôn tồn tại trong đời sống của con người, luôn luôn chiếm giữ một vai trò vô cùng quan trọng trong đời sống của con người, bởi vì nó chính là con người. Văn hoá là yếu tố để thể hiện một cách đầy đủ nhất, một cách trọn vẹn nhất, một cách tổng hợp nhất các giá trị con người.

Hệ giá trị là những cấu trúc phổ biến, những cấu trúc không có quốc tịch mặc dù bao giờ cũng có bản sắc riêng của nói đối với từng cộng đồng khác nhau. Chúng ta nghiên cứu cấu trúc của văn hoá là nghiên cứu cái phổ quát, còn văn hoá của ai thì không được quy định bằng hệ giá trị. Trước đây, khi trí tuệ con người còn thấp, chúng ta phấn đấu vì một hệ lý tưởng nào đó được chỉ ra bởi một hệ tư tưởng. Nhưng cuộc sống diễn biến nhanh hơn nhiều so với những gì con người dự kiến. Con người phấn đấu không phải chỉ vì tương lai mà cần phải và cần có quyền sống, quyền hạnh phúc ngay trong hiện tại.

Thực ra, cần phải nói rằng không thể có thứ hạnh phúc tương lai. Hạnh phúc tương lai là thứ hạnh phúc tưởng tượng, còn hạnh phúc có thật là hạnh phúc diễn ra ngày hôm nay. Hệ giá trị là những tiêu chuẩn để cho con người tìm kiếm hạnh phúc đích thực của nó chứ không phải hạnh phúc trong trí tưởng tượng, hay trong sự tiên lượng về hạnh phúc.

Hệ giá trị là một biểu hiện rất thực tế của văn hoá. Nó dễ bị, hay được, xoá bỏ để thay đổi tạo ra sự phát triển. Đó vừa là phương tiện để con người tự đo mình và vừa có giá trị như một công cụ để có thể đối thoại. Hệ giá trị có thể coi như ngôn ngữ chung để con người chung sống, để con người đi tìm kiếm sự dung hoà, sự cân bằng, sự hoà bình. Hệ giá trị ấy mang tính phổ biến và độc lập tương đối với các giá trị kinh tế.

Đời sống càng ngày càng mở rộng do các khả năng giao lưu. Các quốc gia đang phát triển mới chỉ đặt ra nhiệm vụ hội nhập về kinh tế, nhưng thực ra vấn đề quan trọng hơn cần đặt ra là phải tạo cho con người có năng lực hội nhập về mọi mặt của đời sống. Hội nhập là yêu cầu của đời sống.

Tiêu chuẩn cá nhân, tiêu chuẩn cộng đồng đều có tính độc lập tương đối. Sẽ hoàn toàn sai lầm nếu đòi hỏi phải có các tiêu chuẩn hoàn toàn độc lập cộng đồng hoặc là cộng đồng độc lập tuyệt đối với các cộng đồng khác. Tất cả những điều này đều liên quan đến văn hoá.

Nhân loại đang phát triển theo xu hướng hội nhập, từ xưa đến nay chứ không phải chỉ từ cuối thế kỷ 20. Hội nhập là yêu cầu tất yếu của sự phát triển. Và hội nhập trước hết là hội nhập về văn hoá.

Nhưng các cộng đồng đi vào tương lai bằng cách nào? Và ảnh hưởng của văn hoá đến nhận thức của con người, đến việc hình thành công nghệ tìm kiếm tương lai của mỗi một dân tộc, thể hiện như thế nào?

Để trả lời câu hỏi này, chúng ta lại buộc phải trả lời một câu hỏi khác: Tương lai là gì? Tương lai là cuộc sống ngày mai, chất lượng tương lai thì khác nhau nhưng khái niệm tương lai là giống nhau. Nếu người ta tự sát thì không có ngày mai, nếu người ta hạn chế trí tuệ thì chất lượng của ngày mai sẽ kém đi. Vậy làm thế nào để con người học tập được kinh nghiệm của những dân tộc, của những cộng đồng tiên tiến để đi tới một tương lai tốt đẹp hơn, cao sang hơn? Đấy chính là cái mà tất cả mọi nhà giáo dục, nhà chính trị đều mong muốn.

Đế có kiến thức thì người ta vừa lệ thuộc vào ngày mai vừa phụ thuộc vào quá khứ. Nếu không có ngày hôm qua thì không có kinh nghiệm để có ngày mai, chính vì thế các nhà chính trị thường cường điệu bản sắc dân tộc. Nó chính là chìa khoá để có những kinh nghiệm ban đầu cho hành trình từ hôm nay đi đến ngày mai. Thế nhưng, nếu chúng ta lệ thuộc quá nhiều vào sự lạc hậu và các yếu tố lạc hậu của kinh nghiệm thì chúng ta sẽ đến ngày mai chậm hơn. Lý do thật đơn giản: chúng ta sẽ không thể tự do học hỏi những cách thức tiên tiến cần thiết cho sự phát triển. Từ xưa đến nay, các dân tộc lạc hậu thường là các dân tộc cát cứ. Nước Mỹ hùng vĩ như thế, phát triển như thế, nhưng vẫn còn hai trào lưu đấu tranh gay gắt với nhau: trào lưu "biệt lập chân chính" cho rằng cần phải đóng cửa lại, rằng nước Mỹ cần giải quyết các vấn đề của mình, và trào lưu thứ hai cho rằng nước Mỹ phải mở rộng ảnh hưởng của mình ra toàn thế giới, lấy sức sống của thế giới làm chính sức sống phát triển của mình.

Theo tôi, chúng ta phải thu lượm, hay nói một cách thô kệch hơn, phải nhặt nhạnh tất cả các kinh nghiệm mà chúng ta có thể nhặt nhạnh được trong cuộc sống để tạo ra nhận thức, tạo ra công nghệ tương lai của mình.

http://www.chungta.com/Desktop.aspx/ChungTa-SuyNgam/Van-Hoa/Van_hoa_va_Tuong_lai/

Văn hoá và Hiện tại

Toàn bộ đời sống tinh thần của chúng ta hiện nay là gì, nếu không phải là sản phẩm của văn hoá?

Chúng ta đang sống với chính những thước đo hình thành trong quá khứ. Những thước đo thể hiện trong tất cả các lĩnh vực của đời sống, từ thẩm mỹ đến pháp luật, từ phong tục đến lối sống, từ đạo đức đến nghệ thuật...Văn hoá chính là phương tiện, là môi trường và cũng là cách thức để quá khứ tác động đến hôm nay. Tuy nhiên, quá khứ không phải bao giờ cũng tốt lành. Trước sự phát triển như vũ bão của thế giới gần đây, một số học giả bi quan cho rằng con người cũng chẳng sung sướng hơn mấy, rằng ngày nay, thời gian mà chúng ta có thể chủ động tham gia vào cuộc sống giảm đi nhanh chóng. Họ đi đến kết luận rằng chúng ta đang sống theo những giá trị mà quá khứ quy định, tức là sống theo định kiến, trong khi cuộc sống đã thay đổi về cơ bản. Tôi cho rằng tương lai của cuộc sống được quyết định bởi trí tưởng tượng của con người, còn quá khứ là gông xiềng đối với bất kỳ ai. Để thoát ra khỏi sự trói buộc đó, tôi nghĩ rằng con người phải nhận thức được những tiêu chuẩn chất lượng, hay đòi hỏi tự nhiên, của cuộc sống hiện tại. Con người phải tập thói quen tìm hạnh phúc trong mỗi hoàn cảnh và nhịp điệu của cuộc sống hiện tại. Không có niềm vui lâu dài. Không có buổi dạ hội nào kẻo dài suốt cuộc đời. Nếu có một ai đó chỉ mơ tưởng đến cảm giác vui vẻ hạnh phúc, bay nhảy thì đó là một người phi thực tế, hay thậm chí là một người ngu ngốc. Cuộc sống con người buổi gồm các pha khác nhau, các trạng thái khác nhau.

Người Trung Hoa là điển hình cho một loại người quá mơ tưởng và sùng bái quá khứ. Cho đến nay ở Trung Quốc người ta vẫn xem thời đại Nghiêu, Thuấn là thời đại hoàng kim của đời sống tinh thần. Không Tử giỏi mấy đi nữa, phân tích mãi đi nữa, cuối cùng vẫn quay về giá trị của Nghiêu, Thuấn. Những người truy tìm hạnh phúc của mình trong quá khứ để khai thác kinh nghiệm quá khứ và để tìm những thông điệp hay những cái có lý của cuộc sống là những người không có trí tưởng tượng.

Con người phải tập làm quen với cuộc sống hiện đại, không còn lối thoát nào khác. Đừng hy vọng có một giải pháp trung dung nào cho đời sống của con người nếu không tìm ra được bí quyết để
sống với hiện tại. Con người có tầm nhìn phải tưởng tượng ra, phải truy tìm những yếu tố tương lai của cuộc sống để không bị động với cuộc sống. Con người tiên tiến chính là người tìm ra chất lượng của tương lai đểilàm quen với nó từ trong hiện tại.

Mà hiện tại của chúng ta thì thật nhiều biến động. Nó liên quan đến những thay đổi căn bản trong thế kỷ XX. Ngày nay, quá trình lưu chuyển hàng hoá và thông tin trở nên sôi động trên toàn thế giới, nhất là khi thông tin đã trở thành tầng điện ly thứ hai của quả địa cầu, thì cộng đồng cần phải được mở rộng hơn nữa. Tầng ozon bị chọc thủng đã buộc nhân loại nhận thức ra rằng mình không thể sống tách rời nhau được. Khi con người nhận thấy trữ lượng của mọi nguồn tài nguyên đều hữu hạn thì cuộc sống cũng có thể hữu hạn, cuộc sống hữu hạn thì con người phải biết rằng nếu chúng ta tiêu dùng nhiều trong thế hệ này thì sẽ ảnh hưởng đến cuộc sống của thế hệ sau. Con người ngày càng nhận ra sự xuất hiện của nhiều vấn đề mang tính toàn cầu cho nên cộng đồng bây giờ trở thành cộng đồng toàn cầu Hiện tại của chúng ta là một thứ hiện tại toàn cầu.

Ngay cả khái niệm văn hoá cũng được hiểu ngày một rộng hơn và cũng sâu sắc hơn, vai trò của nó cũng ngày càng được đề cao, nhưng đặc tính của văn hoá thì không thay đổi. Và thật ra thì sự mở rộng khái niệm như thế cũng chỉ là những thay đổi do nhận thức chứ không phải là thay đổi của bản thân văn hoá. Văn hoá có tính bền vững của nó. Tính bền vững tương đối của văn hoá được quy định trước hết bởi chính bản chất của văn hoá. Chính nhờ tính bền vững tương đối ấy mà văn hoá có thể được truyền lại, có thể được tiếp nhận.

http://www.chungta.com/Desktop.aspx/ChungTa-SuyNgam/Van-Hoa/Van_hoa_va_Hien_tai/

Văn hoá và Quá khứ

Theo định nghĩa của chúng ta, văn hoá là những gì còn lại sau những chu trình của lịch sử. Như thế, văn hoá là sản phẩm của quá khứ. Nhưng không phải bất cứ điều gì xảy ra trong quá khứ, bất cứ cái gì từng xuất hiện trong quá khứ đều thuộc về văn hoá, mà chỉ có những gì mang tính kế thừa một cách có hệ thống mới trở thành văn hoá. Quá khứ càng dài, càng phong phú thì vốn văn hoá càng lớn, càng đa dạng. Không phải ngẫu nhiên mà rất nhiều khi người ta nhầm lẫn nền văn hoá của một dân tộc với lịch sử của dân tộc ấy. Cũng không phải ngẫu nhiên mà người ta thường nhầm lẫn văn hoá với văn minh, cái mà theo chúng tôi, là một trình độ phát triển nhất định của văn hoá. Thực ra văn hoá với lịch sử, hoặc văn hoá với quá khứ là những phạm trù khác nhau. Chúng chỉ có những mối liên hệ, cho dù rất mật thiết, mà thôi.

Lịch sử là toàn bộ những sự kiện liên tiếp diễn ra trong toàn bộ thời gian tồn tại của một cộng đồng người. Những sự kiện ấy có thể mâu thuẫn nhau, có thể tuân theo những qui luật nhất định đã biết hoặc chưa biết, cũng có thể hoàn toàn ngẫu nhiên. Chúng có thể có những tác động vào xã hội theo những hướng khác nhau, và cũng có thể được đánh giá theo những quan điểm khác nhau.

Văn hoá không phải là những sự kiện, cũng không phải là toàn bộ những sự kiện. Văn hoá nói cho cùng là những xu hướng, những đặc điểm, những tính chất được hình thành một cách tự nhiên như những giá trị tinh thần của chung xã hội, mặc dù nó luôn luôn được mang tải thông qua những phương tiện vật chất. Văn hoá do những hạt phù sa của quá khứ tạo ra. Chúng lệ thuộc vào quá khứ. Tất cả mọi thành tố của văn hoá, cũng tức là mọi khía cạnh của cuộc sống nhân loại, mọi trạng thái hiện đại của nó, đều lệ thuộc vào quá khứ.

Cuộc sống là một chuỗi liên tục, ngày hôm nay phụ thuộc vào ngày hôm qua - đó là một chân lý.

Việc hình thành lối sống, chẳng hạn, chịu ảnh hưởng trực tiếp bởi truyền thống văn hóa và ngược lại lối sống của con người, của cá nhân cũng như cộng đồng, góp phần tạo thành truyền thống và di sản văn hoá. Trong thời điểm của những thay đổi chưa từng có trên thế giới hiện nay, có những lực lượng, những cá nhân có quyền lực nào đó tỏ ra không tin thế hệ trẻ. Họ lo lắng cho tương lai của thế hệ trẻ.

Nhưng đó là sự lo lắng dựa vào tiêu chuẩn của quá khứ mà họ vẫn còn xem là chân lý. Ở nước nào mà người già không tin vào người trẻ, cha không tin vào con thì đất nước ấy không có tương lai. Riêng tôi, tôi luôn tin vào thế hệ trẻ và tôi tin rằng có rất nhiều người đồng ý với tôi. Lý do thật là đơn giản: cuộc sống của chúng ta sẽ hoàn toàn vô nghĩa, nếu ngày mai không đẹp hơn hôm nay? Nếu tương lai của con cháu chúng ta không đẹp hơn hiện tại của chúng ta? Nếu những người kế nghiệp của chúng ta không thông thái hơn chúng ta?

Mỗi một thế hệ cần phải phấn đấu để cho thế hệ sau mình trở nên vĩ đại hơn mình- Đấy là dạo đức quan trọng nhất của đời sống con người.

http://www.chungta.com/Desktop.aspx/ChungTa-SuyNgam/Van-Hoa/Van_hoa_va_qua_khu/

Friday, August 14, 2009

Cảm giác bất an


Nguyễn Trần Bạt, Chủ tịch / Tổng giám đốc, InvestConsult Group
Sách Suy tưởng


Bất an là một cảm giác, một trạng thái tâm lý bình thường của con người. Sẽ chẳng có gì là đáng bàn nếu nó xuất hiện ở một hoặc một vài cá nhân. Vấn đề cần nghiên cứu là cộng đồng, hay nói rộng hơn, xã hội sẽ đi về đâu khi bất an trở thành một trạng thái tâm lý phổ biến.

Trên tinh thần đó, chúng tôi sẽ tiếp cận và phân tích cảm giác bất an từ một góc độ khác – đó là cảm giác bất an như là tín hiệu về sự xuất hiện của các rủi ro trong đời sống. Hy vọng nó sẽ cung cấp cho các nhà khoa học những gợi ý về việc xây dựng một lý thuyết có ý nghĩa thực tiễn – lý thuyết quản lý rủi ro trong xã hội hiện đại.

Cảm giác bất an như một hiện tượng xã hội phổ biến

Nhằm làm rõ đối tượng nghiên cứu trong bài viết này, chúng ta hãy cùng nhau trả lời các câu hỏi cảm giác bất an là gì? Là khủng hoảng niềm tin, là rối loạn nhận thức, là những nghi ngờ về tính hợp pháp của hành vi hay là nỗi lo sợ vô hình, thường trực và khó cắt nghĩa?

Trước hết, bất an là một cảm giác, và giống như bất kỳ trạng thái cảm xúc nào của con người, nó mang đậm sắc thái trừu tượng. Chính bởi vậy, thật khó để xây dựng một định nghĩa cụ thể và tuyệt đối chính xác về cảm giác bất an. Bài viết này sẽ nghiên cứu cảm giác bất an trên tư cách là một nỗi lo sợ vô hình, thường trực và khó cắt nghĩa bởi nó là hệ quả mang tính chất tổ hợp của sự khủng hoảng niềm tin, rối loạn về nhận thức và những nghi ngờ về tính hợp pháp của hành vi. Ba loại cảm giác trên tựa như những mạch nước ngầm khác nhau trong tâm hồn mỗi con người và cùng đổ về một dòng suối - đó chính là cảm giác bất an.

Từ góc độ phân tâm học, bất an là năng lực cảm biến của con người về những rủi ro có thể xảy đến với mình (hoặc lien quan đến mình), và vì thế, nó phần nào giống như bản năng sinh tồn hay một loại phản ứng của con người trước những tín hiệu về sự xuất hiện của rủi ro. Vì vậy, không bao giờ cảm giác bất an bị triệt tiêu, nếu con người không cảm thấy bất an thì chắc chắn, anh ta đã bị thoái hóa cả về tâm hồn lẫn nhận thức. Tuy nhiên, khác với các loại cảm giác khác, ngay cả khi được chia sẻ, cảm giác bất an vẫn không tăng lên hay vợi đi bởi nó là tín hiệu thông báo sự xuất hiện của một rủi ro nào đó, trong khi rủi ro là có thực và nằm ngoài ý muốn của con người. Vì lý do đó, cảm giác bất an phải trở thành một đối tượng nghiên cứu quan trọng của ngành xã hội học.

Như trên đã phân tích, bất an là một trạng thái tâm lý bình thường và phổ biến của con người; nó, thậm chí, còn nói lên sự lành mạnh (về mặt sinh học) của con người, thể hiện sự nhạy cảm của con người trước cả những rủi ro chủ quan và khách quan. Tuy nhiên, khi bất an trở thành trạng thái tâm lý phổ biến của cộng đồng hay của xã hội thì quả thực rất đáng lo ngại bởi nó nói lên sự không lành mạnh của cộng đồng hoặc xã hội. Nói cách khác, nếu bất an trở thành một hiện tượng xã hội phổ biến, chúng ta sẽ phải đối mặt với một rủi ro cực lớn trên phạm vi toàn xã hội - đó là sự khủng hoảng tâm lý có tính chất toàn diện và sâu sắc.

Trước khi đi vào những nghiên cứu sâu hơn, chúng ta hãy bắt đầu với việc lý giải tính phổ biến của cảm giác bất an. Tại sao cảm giác bất an lại trở thành một hiện tượng xã hội phổ biến? Trong quan điểm của chúng tôi, điều này xảy ra khi và chỉ khi xã hội tiềm ẩn đầy đủ các tín hiệu về rủi ro và điều kiện xảy ra rủi ro. Trên thực tế, con người cảm nhận về sự bất an rất khác nhau vì cảm giác không chỉ đơn thuần là một kích thích mà nó còn là hệ quả của quá trình nhận thức. Nói cách khác, con người nhận thức về các lĩnh vực cụ thể của đời sống khác nhau (chẳng hạn kinh tế, chính trị, văn hóa, giáo dục) nên có cảm giác về sự bất an rất khác nhau. Do đó, sự xuất hiện phổ biến và triền mien của cảm giác bất an cho phép đi đến kết luận: gần như hết thảy các lĩnh vực khác nhau của xã hội đang tiềm ẩn rủi ro. Một nền kinh tế không chuyên nghiệp, các giá trị không được xác lập một cách minh bạch, con người không còn năng lực tin vào sự trong sạch của chính mình, các giới hạn về mặt nguyên lý, về đạo đức không được kiểm soát và những điều tương tự như thế chính là nguyên nhân của sự xuất hiện phổ biến của cảm giác bất an.

Các phân tích trên cho thấy chúng ta không thể dừng lại ở việc xem xét cảm giác bất an như một hiện tượng tâm lý phổ biến mà phải coi nó như là tham số quan trọng nhất của lý thuyết quản lý rủi ro trong xã hội hiện đại. Chừng nào làm được như vậy, chúng ta sẽ biến xã hội Việt Nam trở thành một đối tượng có thể dự báo trong mắt cộng đồng quốc tế.

Từ cảm giác bất an đến ý tưởng về lý thuyết quản lý rủi ro

Nhiệm vụ của xã hội là phát hiện tính phổ biến của cảm giác bởi tính phổ biến của cảm giác là một thông điệp quan trọng về các trạng thái khác nhau của xã hội. Tính phổ biến của cảm giác bất an cho thấy xã hội đang tiềm ẩn những rủi ro khác nhau trong các lĩnh vực của đời sống. Vì vậy, đi từ tính phổ biến của cảm giác bất an, chúng ta có thể xây dựng lý thuyết quản lý rủi ro trong xã hội hiện đại.

Trước hết, phải thức tỉnh con người một chân lý là cảm giác bất an của mỗi cá nhân phản ánh các nguy cơ, các rủi ro và các cơ hội trong cuộc đời anh ta và do đó, phải nhận ra nó trong đời sống của mình và phải nghiên cứu nó một cách cẩn thận. Cảm giác bất an là cảm giác ban đầu của quá trình con người nhận ra rủi ro, nó chính là tham số quan trọng nhất của lý thuyết quản lý rủi ro. Nếu không nghiên cứu các nguyên lý cơ bản hình thành cảm giác bất an, chúng ta sẽ không thể nghiên cứu rủi ro, chưa nói đến việc dự báo và tìm ra các giải pháp để ứng phó với chúng. Khi chúng ta nghiên cứu, điều tra và thống kê một cách có hệ thống cảm giác bất an của các cá nhân và sau đó, điểm cảm giác bất an trên những khía cạnh khác nhau của cuộc sống, chúng ta sẽ phát hiện ra các rủi ro, những rủi ro đó là rủi ro cộng đồng chứ không chỉ là rủi ro của một cá nhân.

Điều tra xã hội học cảm giác bất an là nghiên cứu các rủi ro của xã hội. Chúng ta đang sống trong một xã hội mà cảm giác bất an rất rõ rệt và phổ biến nhưng không có bằng chứng thống kê hay phát hiện xã hội học nào chứng minh sự tồn tại khoa học của những cảm giác bất an mang tính phổ biến. Điều này cho thấy xã hội không nhận ra rằng điều tra về cảm giác bất an của con người là một nhiệm vụ cần được pháp chế hóa. Nói cách khác,tiến hành các điều tra xã hội về cảm giác bất an và dùng các kết quả đó để dự báo các rủi ro, phát hiện tính phổ biến cũng như nguy cơ của các rủi ro và giải pháp ngăn chặn chúng là nhiệm vụ quan trọng của nhà nước.

Các phân tích trên chỉ ra rằng tính phổ biến của cảm giác bất an là cơ sở để phát hiện rủi ro và nghiên cứu các giải pháp ứng phó. Tình trạng tha hóa về đạo đức, kinh tế, văn hóa và giáo dục đều thể hiện một cách rõ ràng qua cảm giác bất an của con người. Do đó, nó là phương tiện khoa học và hữu hiệu nhất để các chính phủ có thể đo đạc tâm lý xã hội phổ biến và từ đó quản lý xã hội của mình. Thật đáng tiếc là các chính phủ vẫn chưa ý thức được hết tầm quan trọng của công cụ này, dẫn đến tình trạng chính phủ không hiểu rõ đối tượng mà mình quản lý. Điều này không chỉ là hệ quả của tình trạng lạc hậu về nhận thức của chính phủ mà còn nói lên sự xơ cứng của xã hội trước các hiện tượng gây ra cảm giác bất an phổ biến. Đây mới chính là điều đáng sợ nhất bởi nó báo hiệu một sự thoái hóa về nhận thức, về cảm giác và về trách nhiệm trên phạm vi toàn xã hội.

Xây dựng quy trình quản lý rủi ro trên nền tảng những nghiên cứu về Cảm giác bất an

Một xã hội dân chủ là môi trường lý tưởng nhất đảm bảo sự thành công của việc xây dựng quy trình quản lý rủi ro.Sở dĩ có thể kết luận như vậy là bởi xã hội dân chủ cho phép con người bày tỏ cảm xúc của mình một cách chân thật và chính xác; trên cơ sở đó, con người mới có thể nói một cách công khai về cảm giác bất an của mình, nghĩa là cung cấp cho nhà nước những linh cảm hoặc dự báo mang tính chất cá nhân và cụ thể về một loại rủi ro nào đó. Bất an là một cảm giác bản năng, nhưng mô tả cảm giác bất an lại là một hành vi văn hóa. Do đó, để mô tả cảm giác của mình một cách chính xác, con người cần phải có những kinh nghiệm văn hóa, hay nói cách khác, con người cần phải được giáo đục về tính chính đáng trong việc mô tả cảm giác của mình, nghĩa là phải giúp con người nhận ra rằng mô tả cảm giác của mình là một quyền mang chất lượng văn hóa. Dường như, nhân loại luôn luôn khủng hoảng cái mà mình không biết và vụng về trong việc mô tả những linh cảm của mình về rủi ro, điều này góp phần tạo nên sự rối loạn về thông tin - nguyên nhân căn bản của sự bất lực trong việc nhận thức thế giới.

Nhà nước dân chủ cho phép con người mở rộng không gian văn hóa; trên cơ sở đó, con người sẽ ra làm phong phú mình với việc trải nghiệm những kinh nghiệm văn hóa khác nhau – đây chính là tiền đề để biến cảm giác nói chung và cảm giác bất an nói riêng, trở thành những tham số mang tính chất thống kê và dự báo. Từ trước đến nay, các mô hình nhà nước khác không chú trọng lắm đến việc đảm bảo tự do của con người trong việc mô tả khát vọng cũng như cảm giác của mình. Trong khi đó, tự do trong mô tả cảm giác là thành tố đầu tiên và quan trọng nhất tạo nên khái niệm tự do. Nếu con người không tự do trong nhận thức và bắt đầu bằng hình thức sơ khai nhất là tự do trong cảm nhận hay tự do trong việc mô tả cảm giác, thì con người không bao giờ đạt tới trạng thái tự do. Việc khoác lên mình những cảm xúc không có thật của những thành viên khác nhau tạo ra một xã hội không có năng lực dự báo bởi phần lớn các trạng thái cảm xúc - trên tư cách các tham số dự báo - đều giả tạo, và do đó, tham vọng đo đạc cảm xúc nói chung và đo đạc cảm giác bất an nói riêng là không thể thực hiện được.

Một trong những điểm ưu việt của chế độ dân chủ là thừa nhận biểu tình như là phương thức mô tả cảm giác của nhân dân nhằm thông báo cho chính phủ biết về cảm giác bất an của họ. Con người chỉ biểu tình khi họ cảm thấy sự xuất hiện của rủi ro hay nói cách khác biểu tình là công cụ giải tỏa cảm giác bất an của con người, và do đó, nó là một phương tiện để xúc tiến sự hiểu biết lẫn nhau giữa chính phủ và đối tượng mà chính phủ quản lý, tức nhân dân. Vì vậy, chính phủ phải tôn trọng nhân dân, phải đo đạc cảm giác bất an của họ một cách chân thực và chính xác. Đó chính là biểu hiện của một xã hội văn minh.

Để có thể đo đạc chính xác cảm giác của con người, cần xây dựng phương pháp luận khoa học trên cơ sở kết hợp giữa hai loại khoa học là thống kê và dự báo. Thống kê để chỉ ra tính phổ biến của cảm giác bất an trên những lĩnh vực khác nhau, để có con số cụ thể về tỉ lệ và tần suất xuất hiện của từng loại cảm giác bất an cụ thể và qua đó phản ánh chân dung của xã hội. Dự báo kết hợp với các khoa học xã hội khác nhằm chỉ ra loại rủi ro nào có khả năng xuất hiện nhiều nhất trong tương lai, trên cơ sở đó, có tâm lý chuẩn bị và ứng phó một cách chủ động.

Trong những năm gần đây, nhiều học giả đã bắt đầu phân biệt hai khái niệm an ninh con người và an ninh quốc gia, cho rằng an ninh con người quan trọng hơn an ninh quốc gia. Kết luận này hoàn toàn không có tính chất pháp chế hay tính chất khoa học nhưng cũng là một mô tả về cảm giác bất an. Điều này cho thấy đã đến lúc phải chuyển trọng tâm nghiên cứu từ an ninh quốc gia sang an ninh con người. Nghiên cứu về cảm giác bất an chính là tìm cách xác lập mối quan hệ biện chứng giữa an ninh con người và an ninh quốc gia. Rõ ràng, an ninh quốc gia chỉ có thể được xây dựng trên cơ sở đảm bảo an ninh con người tức là khắc phục những cảm giác bất an cho con người - đó chính là quá trình tiệm cận đời sống lý tưởng của con người.

Kết luận

Xã hội nào cũng có sự dịch chuyển - đó là kết quả của hai khuynh hướng, thứ nhất là khát vọng của con người hướng tới những điều tốt đẹp hơn, thứ hai là phản ứng của con người trước sự bất an. Nếu sự dịch chuyển của xã hội bị chi phối bởi cảm giác bất an là chủ đạo, nó sẽ rơi vào trạng thái bị động, báo hiệu sự xuất hiện của tình trạng suy thoái ở những lĩnh vực khác tượng xã hội phổ biến, chúng ta sẽ phân tích được cội nguồn của nếu không đi từ gốc, mọi ứng phó tiếp theo để giải quyết các vấn đề sẽ là không có cơ sở đến lượt mình, điều này sẽ dẫn đến một xã hội hoảng loạn và khủng hoảng toàn diện.