Showing posts with label ngan hang. Show all posts
Showing posts with label ngan hang. Show all posts

Tuesday, March 5, 2013

Vụ án Minh Phụng - Epco sau 10 năm nhìn lại

Cho đến tận bây giờ, vụ án Minh Phụng – Epco vẫn đang giữ khá nhiều kỷ lục, đặc biệt về giá trị tài sản phải thi hành án, theo đó các bị cáo và các doanh nghiệp thuộc 2 nhóm Epco và Minh Phụng phải bồi thường và thanh toán các khoản nợ cho 6 Ngân hàng Thương mại. Cách đây 10 năm, vụ án hình sự Minh Phụng – Epco ngay trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử theo luật pháp hiện hành đã thu hút được sự chú ý cao độ của xã hội. Và sau đó, hậu vụ án này cũng làm tốn không biết bao nhiêu giấy mực của các nhà nghiên cứu pháp lý và báo chí, trong quá trình xử lý phần phát sinh của vụ án liên quan đến thi hành án phần tài sản. Tuy nhiên, sau 10 năm, có nhiều vấn đề về pháp lý, về kinh tế xung quanh vụ án Minh Phụng – Epco được nhìn nhận toàn diện hơn và ý nghĩa thời sự của vụ án vẫn còn nóng hổi, đặc biệt là trong lĩnh vực đầu tư và kinh doanh bất động sản. Báo CAND xin trở lại vụ án này qua phóng sự điều tra của tác giả Nguyễn Công Long, xin trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc. Hẳn rất nhiều người còn nhớ, mười năm trước đã xảy ra một vụ án gây chấn động dư luận với hàng loạt đại gia và cán bộ ngành Ngân hàng phải hầu tòa, đó là vụ Minh Phụng – Epco. Cho đến tận bây giờ, vụ án này vẫn đang giữ khá nhiều kỷ lục, đặc biệt về giá trị tài sản phải thi hành án, theo đó các bị cáo và các doanh nghiệp thuộc 2 nhóm Epco và Minh Phụng phải bồi thường và thanh toán các khoản nợ cho 6 Ngân hàng Thương mại: Công thương Việt Nam (Incombank), Ngoại thương Việt Nam (Vietcombank), Ngân hàng Thương mại cổ phần xuất nhập khẩu Việt Nam (Eximbank), Sài Gòn Công thương Ngân hàng; Ngân hàng Thương mại cổ phần Đại Nam; Ngân hàng Thương mại cổ phần Gia Định, tổng số tiền gần 6.000 tỷ đồng và 32,6 triệu USD. Bên cạnh đó, số tài sản phải xử lý để bảo đảm thi hành án cũng đứng hàng “top ten” với trên 390 danh mục gồm 476 đơn vị tài sản là nhà xưởng, dây chuyền sản xuất, máy móc, kho tàng, văn phòng, biệt thự v.v… khối tài sản này Tòa án xác định tại thời điểm xét xử trị giá trên 2.232 tỷ đồng. Nội tình vụ việc đã tiêu tốn không ít giấy mực của báo giới, nhiều tờ báo, tạp chí, kể cả các báo, tạp chí có uy tín trước đó quảng cáo rất màu mè cho Công ty Minh Phụng và Công ty Epco (và dĩ nhiên, tiêu tốn của các doanh nghiệp này không ít tiền), đến khi vụ án xảy ra thì chính các báo, tạp chí này lại là người buộc tội các bị cáo đanh thép nhất (!). Dưới đây, chúng tôi sẽ không nêu lại những tình tiết của vụ án, bởi các hành vi phạm tội của Tăng Minh Phụng và các bị cáo đã được Tòa án phán xử, các bị án cũng đã phải chịu những hình phạt nghiêm khắc nhất, vả lại, toàn bộ diễn biến cũng như nội tình vụ án đã được báo chí phân tích, mổ xẻ rất kỹ lưỡng trong thời gian dài. Điều mà chúng tôi muốn nói ở đây là qua thời gian mười năm, những chiêm nghiệm và kiểm chứng qua thực tế cho phép chúng ta có thể đánh giá sự sụp đổ của Minh Phụng với cái nhìn khách quan hơn. Liệu sự thất bại của Minh Phụng, của Epco có giúp gì đôi chút kinh nghiệm cho các nhà đầu tư, các ngân hàng và cả người dân hiện vẫn đang say trong cuộc chơi bất động sản được thua như đánh bạc hiện nay hay không? Và liệu từ thực tiễn điều tra, xét xử, thi hành vụ án này, các cơ quan tố tụng có thể đúc rút được điều gì? Sự sụp đổ của một “đế chế” Vào thời gian năm 1993-1996, qua các phương tiện thông tin đại chúng, người ta có thể thấy Công ty Minh Phụng nổi lên như là một “tập đoàn” kinh tế năng động và rất thế lực. Mức độ tăng trưởng và sự bành trướng các lĩnh vực kinh doanh của doanh nghiệp này thể hiện qua số liệu các trang quảng cáo của rất nhiều tờ báo, tạp chí làm cho không ít người kinh ngạc Thực tế thì sự cả tin vào tiềm lực của Minh Phụng không phải là không có căn cứ. Hình thành từ những năm đầu thập kỷ 80 của thế kỷ trước, với chức năng chủ yếu là sản xuất, gia công hàng may mặc, giày dép xuất khẩu, giai đoạn đầu Công ty Minh Phụng có những bước phát triển rất ổn định, doanh số có năm lên tới nhiều triệu USD. Tính đến trước khi xảy ra vụ án, Minh Phụng có tới 15 phân xưởng sản xuất gồm 10 phân xưởng may mặc, 1 phân xưởng chuyên ngành nhựa, một phân xưởng dệt gòn, một phân xưởng bao bì PP, 1 phân xưởng thiết kế mỹ thuật cho hàng hóa ngành may và 1 phân xưởng thiết kế vi tính. Quy mô sản xuất thời điểm cao nhất có trên 9.000 lao động. Ngày nay, khi đề cập đến lĩnh vực kinh doanh BĐS, bất cứ doanh nghiệp nào dù nhỏ hay lớn đều có thể nói vanh vách về quy hoạch, về dự án v.v… (còn các chiêu thức “thổi giá” như các nhà kinh doanh BĐS đang làm thì mê hồn trận!). Nếu xem lại quá trình kinh doanh của Minh Phụng, hẳn không ít người sẽ cho nó là ấu trĩ, nhiều người sẽ đặt ra câu hỏi vì sao lựa chọn kinh doanh BĐS bằng toàn bộ vốn vay ngân hàng mà Minh Phụng lại đầu cơ số lượng lớn, tạo ra sự tăng trưởng nóng trong thời gian ngắn đến như vậy, và tại sao, vay đầu tư BĐS mà hầu hết là vay ngắn hạn, chứ không vay trung hay dài hạn? Hơn nữa, kinh doanh BĐS mà lại không định hướng rõ ràng, không xác định được vùng trọng điểm, bạ đâu làm đấy, xem danh mục BĐS mà Minh Phụng đã đầu tư trải dài suốt từ Đà Lạt, Bình Dương, TP Hồ Chí Minh, Bà Rịa – Vũng Tàu, thậm chí cả Hà Nội, thì hẳn rất nhiều người sẽ có chung nhận xét, dù có tài ba đến mấy thì một bộ máy như Minh Phụng khó có thể quản lý hết được hàng triệu mét vuông đất chuyên dùng, không thể cùng một lúc triển khai hàng trăm dự án về hạ tầng khắp các tỉnh, thành trong cả nước, làm ăn như thế không sập tiệm mới là lạ. Nhưng hãy lùi lại khoảng thời gian đầu thập niên 90 của thế kỷ trước, trong khi thị trường BĐS chưa hình thành rõ nét, cơ chế, chính sách về đất đai không đồng bộ, tình trạng tranh mua, tranh bán rất phổ biến. Những đợt sốt đất đầu những năm 90 làm lóa mắt không ít người, thực tế cũng có nhiều kẻ phất lớn từ đất đai. Cũng giống nhiều doanh nghiệp khác, Minh Phụng mong muốn nhanh chóng chớp thời cơ, tích lũy được càng nhiều đất càng tốt, chờ cơ hội sẽ bán ra được với giá cao hơn, điều này không phải là không có lý, vì đất đai không thể đẻ ra được. Ngay từ đầu Minh Phụng đã xác định đầu tư trên quy mô lớn, nhất quyết không làm ăn cò con, sự tăng trưởng quá nóng vô hình trung đã biến Minh Phụng trở thành một “đại lý” về địa ốc, la liệt nhà, đất khắp nơi. Phương thức kinh doanh địa ốc theo kiểu hàng xén như vậy, hẳn nhiên sự bất trắc là không thể tránh, bởi cũng giống như tất cả các đợt “sốt” trên thị trường, thời điểm Minh Phụng nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất là đỉnh điểm của cơn sốt, khi qua cơn sốt thì bán không có người mua. Cha ông ta đã đúc kết buôn tài không bằng dài vốn, nếu thực sự có khả năng đầu cơ đất đai chờ đến chu kỳ sốt tiếp theo, hẳn là Minh Phụng đã phát tài. Song toàn bộ khối tài sản là từ vốn vay, giả sử có chờ được cơn sốt tiếp theo, thì khoản lợi nhuận thu được cũng khó có thể bù đắp cho số lãi mẹ đẻ lãi con, có lẽ bi kịch bắt đầu từ đây Về hình thức huy động vốn, có người cho Minh Phụng thật điên khùng khi vay ngân hàng để đầu tư vào BĐS mà chủ yếu là vay ngắn hạn lãi suất cao. Tuy nhiên, vào thời điểm trên, các định chế về bảo đảm tiền vay rất bó buộc. Để có thể được chấp nhận vay vốn của ngân hàng, doanh nghiệp phải đáp ứng rất nhiều yêu cầu nhiêu khê, đó là chưa kể đến sự nhũng nhiễu của một bộ phận cán bộ biến chất tại các ngân hàng. Nếu đáp ứng đủ các yêu cầu này thì thời cơ đầu tư vào BĐS đã qua đi (do sự hỗn loạn mua bán trên thị trường). Do vậy, để chớp thời cơ, Minh Phụng buộc phải chọn giải pháp cố đấm ăn xôi là “đẻ” thêm hàng chục công ty. Thực tế hàng chục công ty con của Minh Phụng thực chất là các doanh nghiệp “ma” không hề có thực, toàn bộ số vốn đều là ảo, giám đốc, kế toán đều là những người làm thuê, thậm chí đó là những người vốn là bảo vệ, lái xe, lao công, các công ty này có nhiệm vụ duy nhất được sinh ra để vay vốn ngân hàng, mọi hoạt động vẫn hoàn toàn do Tăng Minh Phụng điều hành. Ngoài ra, để thỏa cơn khát vốn, Minh Phụng còn áp dụng các “chiêu” không ai tưởng tượng nổi, đó là ký các hợp đồng mua bán, nhập khẩu hàng hóa dù biết chắc thương vụ sẽ lỗ, mục đích nhằm thông qua các hợp đồng này các ngân hàng có “cớ” để mở L/C hoặc ký bảo lãnh cho Minh Phụng có tiền. Sự “phối – kết – hợp” giữa Minh Phụng và một số cán bộ ngân hàng biến chất còn thể hiện ở việc nâng khống giá trị tài sản thế chấp lên nhiều lần, đến khi xét xử vụ án, Tòa án đã xác định giá trị tài sản thế chấp thấp hơn giá trị thực hàng ngàn tỷ đồng. Với tất cả những điều này, viễn tưởng về sự thành công của mô hình Minh Phụng chỉ là điều ảo mộng và Minh Phụng đã phải trả giá đắt. Nhưng có lẽ điều có ý nghĩa nhất trong các sai lầm của Minh Phụng là cách thức điều hành, tổ chức hệ thống kinh doanh của Minh Phụng là đã cung cấp trong thực tế kinh nghiệm về mô hình “công ty mẹ – công ty con” khá hoàn chỉnh, mô hình mà sau đó ít lâu nước ta vận dụng. Còn việc Minh Phụng cùng cán bộ ngân hàng tự định giá tài sản thế chấp, phải chăng từ đây đã hình thành cơ chế thỏa thuận về giá trị tài sản thế chấp giữa tổ chức tín dụng và bên thế chấp, trao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của tổ chức tín dụng mà hiện đang được các ngân hàng thương mại áp dụng? Vũng Tàu – miền đất dữ Có thể nói không ngoa rằng, có thời kỳ hầu như két sắt của các ngân hàng thương mại lớn nhất của Việt Nam đã hoàn toàn trống rỗng, bởi một phần vốn khổng lồ đã được Minh Phụng ném hết xuống các cánh đồng hoang vu khu Chí Linh, Vũng Tàu, các bãi sình lầy ở Thủ Đức hoặc trong các khu kho xưởng mênh mông tỉnh Sông Bé cũ. Chả thế mà gần đây, khi tổng kết công tác xử lý nợ tồn đọng, Ngân hàng Công thương Việt Nam – đơn vị thiệt hại lớn nhất trong vụ án Minh Phụng – Epco, đã tự đánh giá thiệt hại trong vụ án làm ngân hàng này rơi vào tình trạng “phá sản về kỹ thuật”(!). Dù bị coi là rất nóng vội, phiêu lưu nhưng không thể phủ nhận tầm nhìn khá xa, định hướng mang tính chiến lược của Minh Phụng khi đầu tư vào bất động sản tại các khu vực trên. Thực tế khi xử lý tài sản thế chấp sau này cho thấy, các danh mục tài sản thế chấp là nhà xưởng, kho tàng tại các khu công nghiệp đều có giá khá cao, với thời gian thuê khoảng 40-50 năm, chỉ tính riêng tiền khai thác có ngân hàng đã thu được hàng trăm tỷ đồng. Đối với tài sản là biệt thự, văn phòng, nhà xưởng tại khu vực TP HCM, phần lớn giá bán thực tế đều cao hơn rất nhiều so với giá Tòa án định khi xét xử. Riêng đối với các lô đất mà Minh Phụng đã lập các dự án tại khu vực Thủ Đức trước đây (nay thuộc quận 2), theo quy hoạch của TP HCM, hầu hết số này nằm ở các vị trí rất đắc địa, nếu được triển khai đầy đủ theo các dự án khả thi, thì lợi nhuận chắc chắn sẽ rất lớn. Chẳng thế mà có ngân hàng được Tòa án giao cho một số lô đất tại khu vực quận 2, TP HCM, chưa cần phải triển khai xây dựng dự án, cũng không cần đầu tư hạ tầng, qua phiên đấu giá một lô thôi đã thu đủ toàn bộ số nợ trên 15 triệu USD, ngoài ra đơn vị này còn dư ra được số tiền và tài sản trị giá cả chục triệu USD! Nếu số BĐS Minh Phụng đầu tư tại khu vực TP HCM và tỉnh Bình Dương được coi là rất thành công, thì ngược lại, việc đầu tư vào vùng Bà Rịa – Vũng Tàu thực sự trở thành thảm họa. Khi xét xử vụ án, để đảm bảo thu hồi số nợ của Minh Phụng, riêng tại địa bàn tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, Tòa án đã giao cho các ngân hàng hàng trăm đơn vị tài sản gồm các khu biệt thự, nhà ở, văn phòng, kho tàng và trên 2,6 triệum2 đất chuyên dùng… Quá trình xử lý tài sản thế chấp khu vực này của các ngân hàng đều rất chật vật, ngoài số danh mục là nhà ở, văn phòng, biệt thự đã bán được, số đất chuyên dùng bán rất chậm, thậm chí có ngân hàng qua gần chục năm phải ôm hơn 1 triệum2 đất chuyên dùng mà không sao “tiêu hóa” nổi. Nhiều báo chí đưa tin cho rằng: Các lô đất của Minh Phụng tại khu vực TP Vũng Tàu trị giá mấy ngàn tỷ đồng, nhưng các ngân hàng bán rẻ như cho(?). Mặc dù các trường hợp ngân hàng sai sót trong xử lý tài sản thế chấp mà Tòa án giao trong vụ Minh Phụng – Epco không phải là hiếm, nhưng thực tế việc xử lý số tài sản này không phải “dễ xơi” như nhiều người nghĩ. Rất nhiều lô đất được định giá xong thông báo không có người mua, hơn nữa, với diện tích quá lớn như vậy, việc sử dụng phải theo đúng quy hoạch của địa phương, đồng thời hầu hết các lô đất vẫn là đất nông nghiệp chưa chuyển đổi mục đích sử dụng nên cần có sự đầu tư rất lớn về cơ sở hạ tầng (quy hoạch đường giao thông, điện, nước, công trình công cộng v.v…), không thể “tính cua trong lỗ” theo kiểu chỉ việc chia lô bán nền là có thể thu lời lớn như các đầu nậu đất vẫn làm. Thống kê cho thấy, số tài sản thế chấp của Minh Phụng tại khu vực Bà Rịa – Vũng Tàu giá bán được cao hơn từ 1,3 đến hơn 2 lần so với giá Tòa án đã định khi xét xử, tuy nhiên, so với giá thẩm định của ngân hàng khi cho vay thì giá bán được chỉ xấp xỉ bằng 25 đến 43%. Như vậy, dù bán hết số đất này cũng không thể nào thu hồi được khoản vay nên có thể khẳng định các dự án của Minh Phụng tại khu vực Bà Rịa – Vũng Tàu phần lớn là thất bại. Chính vì vậy, để đỡ gánh nặng cho các ngân hàng, cuối năm 2005, Thủ tướng Chính phủ đã phải quyết định cho phép UBND tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu và ngân hàng nhận thế chấp thỏa thuận việc chuyển giao cho địa phương quản lý, sử dụng trên 1,3 triệu m2 đất và thanh toán lại cho ngân hàng theo giá trị thẩm định, giúp ngân hàng thu hồi nợ. Vậy, tại sao Minh Phụng lại dốc gần như hết tâm lực vào vùng đất này đến như vậy? Không phải ngẫu nhiên khi Minh Phụng lại chọn Bà Rịa – Vũng Tàu là miền đất hứa và đổ tiền của vào để rồi ôm hận. Nếu ta nhớ lại đầu những năm 90 của thế kỷ trước, Bà Rịa – Vũng Tàu đã được chọn là vùng trọng điểm về kinh tế phía Nam, với định hướng phát triển ngành Dầu khí, khi đó, theo quy hoạch, TP Vũng Tàu sẽ là trung tâm của ngành Công nghiệp hóa dầu với một nhà máy lọc dầu rất hiện đại dự kiến sẽ xây dựng tại khu vực xã Long Sơn. Như vậy, sẽ phải có hàng ngàn doanh nghiệp, hàng vạn con người tập trung ở đây, kéo theo các dịch vụ về ngân hàng, tín dụng, nhà ở, văn phòng, biệt thự v.v… Đón bắt được hướng phát triển này, bằng tất cả khả năng của mình cũng như bằng mọi phương cách, Minh Phụng lao vào đầu cơ đất đai. Không chỉ những vị trí đẹp nhất trong thành phố, mà cả những vùng đất sình lầy, bãi hoang chưa có người ở trên địa bàn TP Vũng Tàu và các vùng lân cận cũng đều nằm trong kế hoạch phát triển đầy tham vọng của ông chủ Minh Phụng. Nói một cách khách quan, thực sự Minh Phụng đã in dấu ấn khá đậm nét trong quá trình đô thị hóa ở đây. Những năm 1993-1996, nếu ai đến khu vực TP Vũng Tàu, hẳn dễ dàng nhận thấy sự khởi sắc từng ngày về cảnh quan, kiến trúc đô thị. Hàng loạt khu biệt thự to đẹp, đầy đủ tiện nghi nhanh chóng mọc lên tại TP Vũng Tàu. Không những thế, cả những “cánh đồng hoang” khu vực Chí Linh, rồi những địa danh: Đồng Sát, Hải Đăng, Long Hải, Phước Tỉnh v.v… một ngày kia đều được gắn với tên Minh Phụng với những dự án hoành tráng. Tuy nhiên, sự sụp đổ có thể thấy ngay khi quy hoạch có sự thay đổi, khu công nghiệp hóa dầu được chuyển ra Dung Quất (Quảng Ngãi), kế hoạch xây dựng nhà máy lọc dầu tại TP Vũng Tàu chưa biết bao giờ mới thực hiện. Các cơ hội mà Minh Phụng tưởng như đã đón bắt được, nay vụt qua như ánh sao băng! Kết cục cũng giống như một số đại gia khác đã lao vào đất đai tại Vũng Tàu như Ba Vinh, Phạm Huy Phước,… Minh Phụng cũng đã phải bỏ mình tại miền đất này. Có người cho rằng Vũng Tàu quả là miền đất dữ, có ý kiến cho rằng Minh Phụng sụp đổ do sai lầm quá nóng vội, đi trước thời cuộc, nhưng những gì cho ta thấy ở trên, có thể sẽ khách quan hơn, nếu ta nhận xét thất bại của Minh Phụng một phần rất lớn từ rủi ro. Những kinh nghiệm Do tính chất đặc biệt và mức độ ảnh hưởng về chính trị, kinh tế – xã hội của vụ án rất nghiêm trọng, sau khi vụ án Minh Phụng – Epco được xét xử, Thủ tướng Chính phủ đã ra Quyết định số 56/QĐ-TTg ngày 15/1/2002 thành lập Ban Chỉ đạo thi hành án phần tài sản vụ án Minh Phụng – Epco, do Phó Thủ tướng Thường trực Nguyễn Tấn Dũng (nay là Thủ tướng Chính phủ) làm Trưởng ban, nhằm chỉ đạo thống nhất, bảo đảm thi hành khẩn trương, hạn chế đến mức thấp nhất thiệt hại về tài sản cho Nhà nước và công dân, đây cũng là Ban chỉ đạo đầu tiên được thành lập tại Trung ương nhằm chỉ đạo đối với công tác thi hành án dân sự. Sau hơn 5 năm tổ chức thi hành án, bằng nhiều biện pháp quyết liệt, việc thi hành phần tài sản vụ án Minh Phụng – Epco đã đạt kết quả rất khả quan. Theo báo cáo tổng kết của Ban chỉ đạo thi hành án phần tài sản vụ án Minh Phụng – Epco, trong 6 ngân hàng được thi hành trong vụ án, đã có 3 đơn vị thu hồi đạt trên 100% số nợ và còn dư chuyển đơn vị khác (trong đó có trường hợp 1 ngân hàng thu đủ số nợ trên 15 triệu USD và còn dư số tiền rất lớn đã nêu); 1 đơn vị cơ bản thu gần đủ toàn bộ số nợ. Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam dự tính sẽ thu đủ toàn bộ 100% số nợ của nhóm Minh Phụng và còn dư; số nợ thiếu không thể thu hồi được thuộc nhóm Epco. Riêng Ngân hàng Công thương Việt Nam là đơn vị thiệt hại lớn nhất, tổng thu nợ đạt trên 42% (khoảng trên 2.400 tỷ đồng), theo ước tính, nếu xử lý hết số tài sản và chuyển phần dư của các ngân hàng khác sang, Ngân hàng Công thương Việt Nam có thể thu hồi được xấp xỉ 50% số nợ. Qua kết quả này, có thể nói chưa có vụ án nào mà việc khắc phục hậu quả thiệt hại lại có hiệu quả như vụ án Minh Phụng – Epco. Mặc dù vậy, số nợ không thể thu hồi được của cả hai nhóm Minh Phụng và Epco tại Ngân hàng Công thương Việt Nam vẫn lên tới hàng ngàn tỷ đồng. Quá trình xét xử và thi hành vụ án này, các ngành chức năng cũng đã đúc rút nhiều kinh nghiệm quý báu. Trước hết, vai trò can thiệp của Nhà nước vào các vụ “đổ bể” quy mô lớn có ảnh hưởng xấu về kinh tế – xã hội được xem là một trong những bài học xương máu. Vụ án Epco – Minh Phụng xảy ra ngoài các hành vi vi phạm pháp luật của các cá nhân thuộc hai nhóm Minh Phụng và Epco, của một số cán bộ trong ngành Ngân hàng, thì còn những nguyên nhân khách quan khác, đó là sự ảnh hưởng trực tiếp từ cuộc khủng hoảng tài chính – tiền tệ tại châu Á (1997-1999). Trong điều kiện nền kinh tế đang ở giai đoạn đầu chuyển đổi sang cơ chế thị trường, hệ thống pháp luật chưa hoàn chỉnh, đặc biệt là pháp luật về đất đai, tài chính – tín dụng. Các ngân hàng thương mại Nhà nước còn thiếu kinh nghiệm, doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế vẫn đang trong giai đoạn hình thành, phát triển, thiếu vốn, năng lực tài chính và khả năng cạnh tranh rất thấp, mức độ rủi ro cao. Thêm vào đó, do sự điều chỉnh kế hoạch xây dựng các vùng kinh tế, các dự án trọng điểm của Nhà nước và việc thay đổi quy hoạch đất đai của các địa phương, đã ảnh hưởng nghiêm trọng tới việc triển khai thực hiện dự án sản xuất – kinh doanh của nhiều doanh nghiệp. Trong bối cảnh đó, nếu chúng ta có cơ chế giúp các doanh nghiệp xử lý rủi ro, có sự can thiệp kịp thời bằng các công cụ pháp lý và kinh tế, có lẽ sự thiệt hại và tác động xấu về kinh tế – xã hội sẽ được giảm thiểu tối đa. Nhìn lại vụ án Minh Phụng – Epco, khi vụ việc đổ bể, dường như các cơ quan chức năng mới chỉ tập trung vào việc xử lý sao cho thật nghiêm về hình sự đối với các cá nhân và giải quyết việc thu hồi nợ của các ngân hàng theo trình tự tố tụng mà thôi, hầu như chúng ta chưa có sự can thiệp nào bằng các biện pháp kinh tế, chẳng hạn khoanh nợ, giảm nợ, khôi phục kinh doanh, áp dụng các giải pháp đặc biệt tạo điều kiện cho các doanh nghiệp của các bị can tiếp tục sản xuất kinh doanh, qua đó thu hồi nợ có hiệu quả hơn Kết quả định giá khối tài sản của 2 nhóm Minh Phụng và Epco từng gây nên cuộc tranh luận rất gay gắt trong quá trình tố tụng, chắc nhiều người còn nhớ hình ảnh vị luật sư bảo vệ quyền lợi cho bị cáo đã rơi lệ cay đắng ngay trong phiên tòa khi nghe kết quả thẩm định giá tài sản, vì “mỗi mét vuông đất được tính bằng giá ba cây kem”(?). Nếu so sánh với nhiều nước trên thế giới có thể thấy, trong điều kiện thị trường cạnh tranh hết sức khốc liệt, sự phá sản của các doanh nghiệp là chuyện cơm bữa hằng ngày, ngay cả các tập đoàn kinh tế lớn cũng không phải là ngoại lệ, chẳng hạn như các trường hợp phá sản của Tập đoàn Enron (Mỹ), Tập đoàn Daewoo (Hàn Quốc)… Trong các vụ việc này vai trò can thiệp của Nhà nước bằng các công cụ kinh tế, thậm chí về hành chính là rất quan trọng và hiệu quả. Hẳn chúng ta còn nhớ vụ Tập đoàn Năng lượng Enron (Mỹ) tuyên bố phá sản cuối năm 2001. Theo luật về phá sản của Mỹ, bất kỳ công ty nào của Mỹ tuyên bố phá sản đúng trình tự pháp luật đều sẽ được Chính phủ giúp đỡ. Việc phá sản của Enron cũng mang tính chất hình sự, Chủ tịch HĐQT của Enron là Kenneth Lay và các nhân vật chủ chốt của tập đoàn này đều phải hầu tòa. Nhưng riêng đối với doanh nghiệp, để tránh cho thị trường chứng khoán Mỹ khỏi cơn chao đảo, đồng thời giúp hơn 30.000 nhân viên của Tập đoàn Enron thoát cảnh “đứng đường”, Chính phủ Mỹ đã trích ngân khố mua lại toàn bộ tập đoàn này, nhờ đó mà hiện Enron đã hoàn toàn hồi phục và phát triển, vững bước cùng sánh vai với các đại gia ngành năng lượng Mỹ và thế giới. Mọi sự so sánh đều là khập khễnh, có thể các cơ quan Nhà nước của Việt Nam chưa đủ tiềm lực như Mỹ, để có thể hào phóng bỏ ra khoản tiền lớn để mua lại một doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản, tuy nhiên, trong hoàn cảnh của Việt Nam, các hình thức hỗ trợ hoặc tác động gián tiếp khác cũng có tác động tích cực không kém. Chẳng hạn, sau vụ án Minh Phụng – Epco, việc xử lý nợ của Công ty Huy Hoàng (doanh nghiệp này cũng lâm vào tình trạng mất khả năng thanh toán nợ và có tính chất tương tự như Minh Phụng, nhưng tất nhiên số nợ nhỏ hơn nhiều), đã tỏ ra rất hiệu quả, không chỉ thu hồi đủ nợ mà còn tránh phải xử lý vụ việc theo trình tự tố tụng, ngăn ngừa những tác động xấu về kinh tế – xã hội có thể xảy ra nếu phải xử lý vụ việc theo phương thức này. Nhưng bài học đắt giá qua vụ án này không chỉ dừng lại ở vai trò việc can thiệp của Nhà nước, ở phạm vi hẹp hơn chúng tôi cho rằng việc áp dụng pháp luật trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án các vụ án kinh tế lớn, thậm chí các cơ chế được coi là “đặc biệt” khi Tòa án vận dụng để xử lý vụ án Minh Phụng – Epco cũng cần được nghiêm túc xem xét, rút kinh nghiệm. Nguyên tắc tố tụng từ trước tới nay, khi xét xử các vụ án hình sự, Tòa án có quyền giải quyết đồng thời về dân sự, hầu hết các vụ án hình sự đều áp dụng nguyên tắc xử lý này. Bên cạnh vụ án Minh Phụng – Epco có thể kể rất nhiều vụ án kinh tế có tính chất phức tạp như: “Nước hoa Thanh Hương”, “Tamexco”, Mai Văn Huy” và sau này là các vụ án “Ngân hàng Việt Hoa”, “Ngân hàng Nam Đô” v.v… Việc áp dụng quy định về giải quyết trách nhiệm dân sự trong các vụ án hình sự có ưu điểm là rút ngắn được tiến trình tố tụng, làm giảm chi phí về tiền bạc, công sức, thời gian của các cơ quan tiến hành tố tụng cũng như các đương sự. Tuy nhiên, trong các vụ án lớn, phức tạp, nếu chỉ vì muốn đáp ứng yêu cầu về “tiến độ” đưa ra xét xử đối với các bị cáo, mà phải hoàn tất toàn bộ hồ sơ vụ án để giải quyết phần tài sản và trách nhiệm dân sự ngay trong vụ án hình sự, thì nhiều khi những hậu quả xấu về pháp lý còn nguy hại hơn rất nhiều, điều này có thể thấy rất rõ ngay trong vụ án Minh Phụng – Epco. Một vụ án mà bên cạnh tính chất đặc biệt nghiêm trọng như chúng tôi đã nêu, tổng số nợ phải thu nếu quy đổi trị giá vào thời điểm đó trên 500 triệu USD, với hàng trăm hợp đồng, khế ước, hằng trăm đương sự với vô số mối quan hệ phức tạp về dân sự, kinh doanh – thương mại, tài chính – tín dụng, đất đai… Vậy mà các Thẩm phán hình sự vừa xét xử về hình sự vừa phải giải quyết ngay về dân sự, chứ không tách riêng ra để giải quyết bằng vụ dân sự khác. Chính vì lẽ đó phần quyết định về tài sản có rất nhiều sai sót. Ví như tài sản giao cho ngân hàng xử lý có cả phần tài sản (quyền sử dụng đất) chồng lấn diện tích, ranh giới với tài sản của vụ án lớn khác; hoặc có doanh nghiệp phải dở khóc dở mếu vì nếu chiểu theo phán quyết của Tòa phải trả nợ đến hai lần, vì Tòa “quên” khoản nợ đó đã được cấn trừ tài sản, rồi hàng loạt các trường hợp tài sản đã được tuyên xử lý nhưng trong quá trình thi hành án, TAND Tối cao phải ra quyết định Giám đốc thẩm và tái thẩm tuyên hủy. Và cho đến thời điểm hiện tại, khi phần quyết định về tài sản trong vụ án Minh Phụng – Epco đã có hiệu lực thi hành đã hơn bảy năm, vẫn có nhiều khoản tuyên về tài sản đang được xem xét lại. Trớ trêu hơn, có trường hợp phần tuyên của Tòa về trách nhiệm thu hồi khoản đầu tư của một doanh nghiệp có độ dài không quá ba dòng, nhưng Tòa án đã có tới bốn, năm lần ra văn bản giải thích nội dung thi hành, văn bản giải thích sau lại “đá” văn bản trước, làm cho cơ quan thi hành án dân sự cũng như các bên có nghĩa vụ chẳng biết đâu mà lần. Thậm chí như Báo Lao động bình luận, theo văn bản giải thích trước thì chấp hành viên, thủ trưởng cơ quan thi hành án sẽ phải “xộ khám”, nhưng đến văn bản giải thích sau, thì sẽ lại kẻ khác (phía doanh nghiệp) có nguy cơ đi tù(!?). Kể ra điều này, chúng tôi hoàn toàn không có ý đánh giá thấp cơ quan xét xử và các Thẩm phán, mà chỉ muốn lưu ý rằng, dù xuất phát từ tính chất hình sự hay tranh chấp dân sự thông thường, các quan hệ tài sản mang những đặc trưng riêng và hết sức phức tạp, nhất là các quan hệ về tài chính – tín dụng, kinh doanh, thương mại hay đất đai, đòi hỏi phải có thời gian và thủ tục giải quyết riêng. Hơn nữa, việc cân nhắc, đánh giá chứng cứ để đi đến quyết định về trách nhiệm dân sự hoàn toàn khác với đánh giá chứng cứ về hình sự nhằm định tội và lượng hình. Với những vụ án có quy mô và tính chất như Minh Phụng – Epco, nếu giải quyết cả về hình sự và dân sự trong một vụ án, thì có tài ba đến mấy, người cầm cân nảy mực cũng khó tránh được sai lầm. So sánh với pháp luật tố tụng của nhiều nước, thì hầu như tất cả các quốc gia đều có quy định phần bồi thường thiệt hại hoặc trách nhiệm tài sản trong vụ án hình sự, các bên phải khởi kiện bằng vụ kiện dân sự khác, chứ không giải quyết ngay trong bản án hình sự. Về vấn đề định giá tài sản và giao tài sản để cấn trừ nợ trong vụ án Minh Phụng – Epco, đây được coi như một án lệ tiêu biểu, một “cơ chế xử lý đặc biệt” được Tòa án áp dụng riêng trong vụ án này. Như chúng tôi đã đề cập, toàn bộ khối tài sản của 2 nhóm Minh Phụng và Epco đã được các cơ quan chức năng định giá rất cẩn trọng (có cả hội đồng với đủ đại diện các cơ quan có thẩm quyền). Kết quả định giá này đã từng gây nên cuộc tranh luận rất gay gắt trong quá trình tố tụng, chắc hẳn nhiều người còn nhớ hình ảnh vị luật sư bảo vệ quyền lợi cho bị cáo đã rơi lệ cay đắng ngay trong phiên tòa khi nghe kết quả thẩm định giá tài sản, vì “mỗi mét vuông đất được tính bằng giá ba cây kem”(?). Nhưng dù có thế nào, về mặt hình sự kết quả thẩm định giá là một trong các chứng cứ quan trọng để định tội. Cụ thể là đối với các bị cáo thuộc hai nhóm Minh Phụng và Epco, cùng các hành vi về mặt khách quan khác, giá trị khối tài sản thế chấp theo kết quả định giá thấp hơn rất nhiều so với tổng khoản nợ vay ngân hàng, là một trong các căn cứ kết án bị cáo phạm tội “lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Về dân sự, Tòa án cũng căn cứ giá trị tài sản để áp dụng phương thức xử lý nợ của hai nhóm Minh Phụng và Epco. Theo đó, tổng số nợ theo các hợp đồng tín dụng, hợp đồng bảo lãnh hoặc khoản nợ vay khác của 6 ngân hàng được cấn trừ bằng giá trị tài sản thế chấp trên 2.232 tỷ đồng. Số nợ còn lại (khoảng trên 4.000 tỷ đồng) bản án xác định “là số nợ còn thiếu sau khi cấn trừ tài sản thế chấp”, do vậy các bị cáo và các doanh nghiệp của các bị cáo phải bồi thường. Điều đặc biệt là trong vụ án này, Tòa án đã tuyên giao toàn bộ số tài sản thế chấp cho các ngân hàng để quản lý, khai thác, phát mại thu hồi nợ. Xin không bình luận về phần hình sự, riêng phần dân sự qua thực tiễn tổ chức thi hành án, quyết định của Tòa án về xử lý cấn trừ nợ và giao xử lý tài sản như vừa nêu, chúng tôi thấy rất đáng bàn. Một là, quyết định của Tòa án cấn trừ nợ bằng giá trị tài sản thẩm định tại thời điểm xét xử vụ án, theo chúng tôi xét trên cả phương diện lý luận lẫn thực tiễn, là điều rất bất hợp lý. Có lẽ tất cả những người có kiến thức tối thiểu về kinh tế cũng đều sẽ ngạc nhiên là tại sao cả khối tài sản khổng lồ với trên 390 danh mục đất đai, nhà xưởng, kho tàng, biệt thự, văn phòng, v.v lại được Tòa án quy ra bằng một lượng tiền mặt cố định để cấn trừ nợ, hoàn toàn không tính đến những yếu tố biến động về giá trị, không đặt tài sản trong mối quan hệ thị trường, giá trị về khai thác, sử dụng và các giá trị gia tăng khác v.v và v.v. Nói một cách nôm na, đến thế kỷ XXI, dường như Tòa án vẫn áp dụng phương thức cổ điển nhất của loài người về trao đổi giá trị, mà theo đó, hàng trăm danh mục bất động sản kể trên cũng chẳng khác gì những chiếc vỏ sò mà người nguyên thủy đã từng dùng để trao đổi hàng vạn năm về trước! Lẽ ra, trường hợp này, trên cơ sở xác định tổng số nợ, Tòa án phải tuyên phương thức thu hồi nợ căn cứ vào giá trị thực tế tài sản thời điểm xử lý, cộng với giá trị khai thác, sử dụng v.v thì mới bảo đảm quyền lợi cho cả hai bên (các ngân hàng và hai nhóm bị cáo). Author: Nguyễn Công Long http://ca.cand.com.vn/vi-VN/thoisuxahoi/phongsughichep/2007/12/120178.cand?Page=3

Monday, April 23, 2012

Lạm phát vì đâu?

Tiến sĩ Vũ Thành Tự Anh-Giám đốc nghiên cứu Chương trình giảng dạy kinh tế Fulbright phân tích bản chất và những căn bệnh của nền kinh tế xung quanh câu chuyện lạm phát và lãi suất ngân hàng.
TS Vũ Thành Tự Anh
TS Vũ Thành Tự Anh.
Hệ quả của những điều bất bình thường
Lạm phát, giá cả tăng và doanh nghiệp (DN) cần nhiều vốn để đầu tư cho hoạt động sản xuất kinh doanh, trong khi đó nguồn vốn lại bị siết khiến DN gặp không ít khó khăn, ông nhìn nhận thế nào?
Chúng ta nên có cái nhìn dài hạn, không thể cứ thấy giá tăng thì Nhà nước bơm tiền ra để DN có vốn. Vấn đề là, đằng sau hiện tượng tăng giá có nhiều nguyên nhân, trong đó có 2 nguyên nhân chính.
Thứ nhất, trong thời gian dài, cung tiền tăng rất nhanh, cụ thể trong suốt 15 năm trở lại đây, tăng trưởng tín dụng luôn ở mức trên 30%/năm. Thứ hai, trong khi cung tiền tăng như vậy nhưng tăng trưởng GDP lại không tương xứng, tăng trưởng trung bình 7%/năm và thời gian gần đây chưa đến con số đó.
Sự mất cân đối đó dứt khoát phải gây ra lạm phát, nhập siêu. Khi lạm phát cao, Chính phủ buộc phải giảm bớt cung tiền, tín dụng. Về bản chất là sửa lại cái lỗi trong suốt mười mấy năm qua, đặc biệt từ năm 2007 trở lại đây.
Nếu lạm phát tiếp tục tăng, thì lãi suất cũng tăng theo, cho nên dù Nhà nước có dùng biện pháp hành chính để khống chế giảm lãi suất thì doanh nghiệp, ngân hàng cũng sẽ tìm cách đục thủng trần lãi suất theo quy luật thị trường?
Khi làm điều đó, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã áp dụng biện pháp hành chính để nén lãi suất xuống và tránh cuộc chạy đua lãi suất của các ngân hàng thương mại (NHTM).
Nhưng biện pháp đó vi phạm quy luật cung cầu của thị trường tín dụng. Thực tế này cũng làm cho DN và các NHTM lách trần tín dụng bằng nhiều cách và chưa chắc lãi suất áp đặt của NHNN đã phát huy tác dụng, nhưng lại chắc chắn tạo ra một loạt những méo mó trong hệ thống, và cụ thể là trên thị trường tín dụng.
Tăng cung tiền suốt một thời gian dài đã đẩy lạm phát tăng cao (Ảnh minh họa: Đại Dương)
Tăng cung tiền suốt một thời gian dài đã đẩy lạm phát tăng cao (Ảnh minh họa: Đại Dương).
Khi lãi suất cho vay lẫn lãi suất huy động đều cao, ông có cho rằng, đó là nền kinh tế chứa đựng nhiều điều bất thường?
Chắc chắn là bất bình thường, và đó là hệ quả của một thời gian dài bất bình thường. Nền kinh tế trước kia tăng trưởng 7- 8% thì mọi người nghĩ rằng tăng trưởng tín dụng như thế là ổn, nhưng nó giống như là người uống rượu nhiều quá, bệnh tích lũy lại và đến lúc bùng phát thì mới vỡ ra rằng, việc chúng ta làm từ trước đến giờ là tích lũy bệnh.
Bất bình thường đó như một căn bệnh được tích tụ trong nhiều năm. Thứ hai, lãi suất cao, 16-18%, đã làm tăng chi phí kinh doanh của DN, và khi phải cạnh tranh với các đối thủ quốc tế mà họ chỉ phải trả lãi suất 5%-6% thì đó là sự bất lợi của DN Việt Nam.
Thứ ba, điều rất quan trọng mà người ta ít khi nói tới, đó là tính bất định. Vấn đề của DN hiện nay là không biết được ngày mai sẽ lên hay xuống, tình trạng thị trường sẽ như thế nào, những rủi ro về mặt thị trường quá lớn, lớn hơn rất nhiều so với chi phí trả cho việc lãi suất tăng.
Ách tắc thanh khoản
Tính thanh khoản của các ngân hàng kém là do sự yếu kém của chính ngân hàng. Tuy nhiên, hệ thống ngân hàng lại bắt DN và người dân gánh chịu yếu kém của mình?
Hiện tại, lượng tiền trong các ngân hàng đang bị ứ đọng chứ không phải thiếu. Nhìn vào thanh khoản của các ngân hàng thì biết số lượng tiền gửi tăng và ngày càng nhiều, trong khi giải ngân thấp hơn so với trước.
Có người nói lượng tiền hiện nay dồi dào, tôi thì cho rằng nó bị ách tắc chứ không phải dồi dào.
Tại sao như thế? Một phần do lãi suất cao nên ngân hàng khó cho vay, ngay cả khi muốn cho vay cũng không tìm được khách hàng an toàn để cho vay, bởi rủi ro trên thị trường, tức tính bất định như tôi vừa nói quá lớn.
Khi cho một DN vừa và nhỏ vay, ngân hàng không dám chắc thu hồi được vốn nên phải cộng thêm vào đấy một phần bù cho rủi ro. Mặt bằng lãi suất cao, cộng với rủi ro cao làm cho lãi suất cao thêm một tầng nữa.
Nếu không làm giảm bớt những rủi ro đấy thì sẽ không có cơ sở để giảm lãi suất và DN sẽ không vay để đầu tư mở rộng sản xuất. Khi ngân hàng ứ đọng tiền, họ tìm đầu ra bằng việc mua trái phiếu, tín phiếu của Chính phủ, lãi suất 10-11%, tuy thấp hơn lãi suất cho vay nhưng bù lại không phải chịu rủi ro, vì đấy là tài sản do Chính phủ bảo đảm.
Bên cạnh đó, lãnh đạo các ngân hàng nhìn thấy khoảng 4, 5 tháng nữa lạm phát có thể sẽ trở về mức 7-8%, nên mua ở thời điểm này 10-11% là tốt quá rồi. Họ đặt tiền tại chỗ và chẳng phải làm gì nhưng vẫn có lợi nhuận. Đấy chính là vấn đề của hệ thống ngân hàng hiện nay.
Theo ông, điều đó sẽ dẫn đến những hệ lụy gì?
Hệ lụy đầu tiên là dòng vốn không được khơi thông, nó vẫn bị ứ đọng, chỉ chuyển từ ứ đọng trong két của ngân hàng sang ứ đọng trong trái phiếu hoặc tín phiếu mà ngân hàng đang sở hữu. Vốn đó không đến được với các DN.
Thứ hai, khi NHNN và Chính phủ vẫn tiếp tục huy động trái phiếu và tín phiếu thì các NHTM vẫn tìm thấy đường ra nên không có động lực, không có khuyến khích nào để buộc họ phải cho DN vay, tức là Nhà nước đang chèn lấn khu vực tư nhân, khu vực nhà nước đang chèn lấn khu vực DN.
Như thế làm sao DN có vốn để đầu tư sản xuất. Nếu NHNN và Chính phủ không phát hành trái phiếu, tín phiếu nhiều thì lượng ứ đọng của ngân hàng sẽ phải tìm đường ra là DN hoặc người tiêu dùng. Giờ Nhà nước hút tiền vào rồi thì ngân hàng ung dung tự tại hưởng lãi suất 3-4%.
Làm thế nào để ngân hàng vừa không ứ đọng, vừa phục vụ các đối tượng có nhu cầu vốn một cách hiệu quả, thưa ông?
Cần tiếp tục giảm lãi suất song hành với kiềm chế lạm phát. Nếu xu thế như hiện nay thì đến tháng 6 năm nay lạm phát so với cùng kỳ năm ngoái sẽ giảm xuống mức 8-9%, là mức ổn định, lành mạnh đối với nền kinh tế đang phát triển như Việt Nam.
Điều đó cũng có nghĩa là NHNN tiếp tục giảm thêm lãi suất, không phải chỉ ở mức 12% như hiện nay mà có thể xuống 9-10% vào khoảng tháng 6 này. Khi lãi suất huy động giảm còn 10% thì đó là cơ sở để giảm lãi suất cho vay.
Lãi suất cho vay cao không phải vì lãi suất huy động cao mà vì rủi ro quá lớn, vậy thì Nhà nước phải giảm rủi ro xuống bằng cách ổn định kinh tế vĩ mô, từ đó làm giảm bớt những rủi ro có tính thị trường và DN có thể đầu tư, mở rộng sản xuất.
Khi người tiêu dùng thấy không bị xói mòn giá trị vì lạm phát thì có thể bỏ tiền ra tiêu dùng. Đấy là lúc cả bên cung và bên cầu có niềm tin lớn hơn vào triển vọng kinh tế và sẽ thúc đẩy nền kinh tế đi lên.
Thứ ba, Nhà nước có thể nghĩ đến những biện pháp ngắn hạn, như giảm thuế, miễn thuế cho DN và đừng chồng thêm các loại phí vì sẽ làm giảm chi tiêu của người dân khiến nền kinh tế đi sâu hơn vào đình trệ.
Những tín hiệu lạc quan
Theo ông, các cơ quan điều hành đã làm được gì để ổn định nền kinh tế vĩ mô?
Nhìn vào các chỉ số hiện nay, tôi thấy NHNN làm được 2 việc. Việc thứ nhất là có một lộ trình giảm lãi suất rất mạch lạc, Thống đốc nói rất rõ và thực hiện đúng những gì ông ấy nói là mỗi quý giảm 1%.
Thông điệp như thế là rõ ràng và tạo niềm tin cho thị trường. Thứ hai, với chính sách thắt chặt chính sách tiền tệ thì trên thực tế lạm phát giảm.
NHNN chưa làm được là việc tái cơ cấu hệ thống ngân hàng. Cho đến nay, chưa có dấu hiệu gì cụ thể của việc tái cơ cấu, thậm chí tôi còn nhìn thấy trong đấy một số dấu hiệu chưa tích cực.
Cụ thể là 3 ngân hàng sáp nhập lại với nhau (hồi cuối năm 2011) là có cùng một chủ.
Lỗi của họ là phá tan tài sản của người gửi tiền, tạo ra rủi ro cho hệ thống nhưng họ không những không bị mất vốn hoặc bị phạt mà lại còn được thưởng bằng cách được nhà nước bơm tiền vào, được Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV) hỗ trợ thanh khoản. Đó là cái không công bằng.
Ông đánh giá thế nào về tình hình lạm phát trong thời gian tới?
Nhìn một cách tổng quan, tôi không thấy có những nhân tố đột biến để làm cho lạm phát thay đổi trong một, hai quý tới, đặc biệt trong quý II-2012. Tôi tin là vào quý III năm nay lạm phát chỉ còn dao động 7%-8%.
Xu thế lạm phát giảm đều đặn cho đến quý III năm nay. Việc giảm một cách ổn định như thế thì chính sách lãi suất cần điều chỉnh một cách tương thích.
Cảm ơn ông.
Thứ nhất, trong thời gian dài, cung tiền tăng rất nhanh, cụ thể trong suốt 15 năm trở lại đây, tăng trưởng tín dụng luôn ở mức trên 30%/năm.
Thứ hai, trong khi cung tiền tăng như vậy nhưng tăng trưởng GDP lại không tương xứng, tăng trưởng trung bình 7%/năm và thời gian gần đây chưa đến con số đó. Sự mất cân đối đó dứt khoát phải gây ra lạm phát.
Đại Dương

Thursday, November 10, 2011

Nghẽn dòng tín dụng bất động sản


(TBKTSG) - Các ngân hàng “im hơi lặng tiếng” trước việc hàng loạt doanh nghiệp bất động sản hạ giá bán sản phẩm nhằm thu hồi vốn trả nợ. Không ngân hàng nào công khai việc đòi nợ bởi như thế chẳng khác nào “vạch áo cho người xem lưng” rằng dư nợ bất động sản quá nhiều.
Nếu xét về số tuyệt đối, dư nợ cho vay bất động sản của các ngân hàng quốc doanh và những tổ chức tín dụng cổ phần lớn chiếm đa số số dư toàn hệ thống. Nhưng xét về tỷ lệ trên tổng dư nợ, các ngân hàng này kiểm soát tốt hơn những ngân hàng đang yếu kém thanh khoản và chịu tái cấp vốn.
Vào cuối tháng 6, khi bắt buộc phải giảm dư nợ phi sản xuất về mức 22%, một số ngân hàng có vấn đề đã dựa hơi ngân hàng lớn thông qua vay mượn hạn mức, bán nợ. Nhờ đó tỷ lệ 22% được đảm bảo vào thời điểm quy định. Tuy nhiên sau một, hai tháng, tỷ lệ đó lại tăng lên do việc “dựa hơi” không thể kéo dài.
Thời “dựa hơi” đã chấm dứt
Bây giờ việc “dựa hơi” khó hơn rất nhiều vì tương lai phải sáp nhập, chuyển nhượng, mua bán lẫn nhau của các ngân hàng yếu kém đã rõ ràng. Thành viên hội đồng quản trị một ngân hàng cổ phần tầm cỡ nói: “Chúng tôi đã được đề nghị, nhưng chúng tôi kiên quyết không nhận các ngân hàng yếu kém nếu Ngân hàng Nhà nước (NHNN) không có các chính sách ưu đãi phù hợp”.
Ông Trần Bắc Hà, Chủ tịch Hội đồng quản trị BIDV, cho biết: “Là định chế tài chính nhà nước, chúng tôi sẵn sàng tham gia quá trình tái cơ cấu ngành ngân hàng khi Nhà nước chỉ định”. Đúng là BIDV phải thể hiện trách nhiệm và nghĩa vụ của một ngân hàng quốc doanh, nhưng việc gách vác ngân hàng nhỏ sẽ không thể không đi kèm những ưu đãi đặc biệt về cơ chế.      
Giống như máu của cơ thể, tiền của ngân hàng đang chảy trong những tòa cao ốc, trong các khu căn hộ, biệt thự, trong các dự án đô thị cũ và mới!
Đến lượt mình, các tổ chức tín dụng có vấn đề chỉ còn cách đòi nợ. Một ngân hàng được tái cấp vốn 5.000 tỉ đồng đợt vừa rồi, hiện dư nợ bất động sản vẫn còn hơn 50% tổng dư nợ. Những khoản vay 50-100 tỉ đồng ngắn hạn dưới sáu tháng có khả năng đòi được vì giá trị tài sản thế chấp là nhà đất thấp, việc phát mại càng có thể thành công cao.
Đáng ngại hơn là các dự án hàng ngàn tỉ đồng, không thể tìm được người mua, kể cả nhà đầu tư nước ngoài. Giám đốc khối tín dụng một ngân hàng yêu cầu không nêu tên, chỉ ra: “Mấy năm trước các chủ đầu tư phần lớn xây dựng biệt thự, căn hộ cao cấp. Nay căn hộ càng cao cấp bao nhiêu, càng ế bấy nhiêu. Một số ngân hàng cho vay vướng chủ yếu vào phân khúc này. Căn hộ cấp thấp do chủ đầu tư lấy công làm lãi, thường thuộc diện tín dụng chính sách xã hội, nên không đáng lo”. Một quan chức NHNN giải thích thêm: “Những ngân hàng yếu kém chạy theo lợi nhuận đều dính dự án cấp cao hết. Đụng đến tín dụng bất động sản coi như điểm huyệt hệ thống ngân hàng”.
Thức tỉnh số liệu
Giả sử đến cuối năm dư nợ phi sản xuất của hệ thống ngân hàng được “kéo” về đúng 16%, với tổng dư nợ hiện khoảng 2,5 triệu tỉ đồng, thì cho vay phi sản xuất ước chừng 400.000 tỉ đồng, tương đương 20 tỉ đô la Mỹ, bằng gần 20% GDP. Còn hiện tại, lấy tỷ lệ của ngày 30-6-2011 là 22%, con số này tương ứng là 550.000 tỉ đồng, 27 tỉ đô la Mỹ và 27% GDP.
Trong cơ cấu tín dụng phi sản xuất, cho vay chứng khoán hiện chiếm tỷ trọng nhỏ (thị trường chứng khoán đang trong cơn khủng hoảng), phần còn lại là cho vay bất động sản và tiêu dùng. Trong cho vay tiêu dùng, khoảng 80-90% thuộc về hỗ trợ mua nhà, sửa nhà. Vay tiêu dùng để du học, mua sắm tiện nghi cá nhân đối với người Việt không nhiều và cũng không phải thói quen, trừ vay mua ô tô nhưng tỷ lệ loại phương tiện giao thông này trên đầu người còn thấp.
Như vậy hàng chục tỉ đô la Mỹ dư nợ phi sản xuất đang nằm ở bất động sản.
Hãy nhìn các tòa cao ốc, trung tâm thương mại, căn hộ cho thuê sừng sững ở Hà Nội và TPHCM, thử hỏi có bao nhiêu tòa nhà trong số đó được xây nên hoàn toàn bằng vốn tự có của chủ đầu tư? Khảo sát của một ngân hàng nước ngoài ở TPHCM cho biết hầu hết là vay vốn ngân hàng, mức vay khoảng 50-70% giá trị dự án. Giống như máu của cơ thể, tiền của ngân hàng đang chảy trong những tòa cao ốc, trong các khu căn hộ, biệt thự, trong các dự án đô thị cũ và mới!
Khi thị trường bất động sản hoạt động bình thường, các dự án có thể sinh lời, dòng tiền chuyển động, nợ cũ được trả, nợ mới được vay, vòng quay tín dụng nối nhịp. Nay thị trường bất động sản đóng băng, mất thanh khoản, tiền cho vay gần như “chết đứng”. Tín dụng ngân hàng bị liệt một mắt xích.
Vì sao tháng 9?
Giới quan sát nhận thấy rõ trào lưu giảm giá bất động sản vốn âm thầm từ lâu đã bất ngờ tăng nhiệt từ tháng 9-2011.
Có hai lý do dẫn đến sự tăng nhiệt này.
Thứ nhất, trong tháng 9 NHNN đã bán ra một lượng ngoại tệ lớn can thiệp tỷ giá. Đợt can thiệp đầu tiên khoảng 1,5 tỉ đô la Mỹ và từ đó đến nay ước thêm 500 triệu nữa, tức khoảng 2 tỉ đô la Mỹ đã được cơ quan quản lý sử dụng. Một lượng tương ứng tiền đồng đã được hút về vô thời hạn. Việc bơm tiền ra qua kênh thị trường mở để cân bằng chỉ có tính thời hạn và trên tinh thần chính là kiểm soát lạm phát. Ngoài ra việc thắt chặt cung tiền đồng có tác dụng rõ rệt trong chống đầu cơ tỷ giá.
Việc gia tăng tổng phương tiện thanh toán vào những tháng cuối năm không nằm trong chương trình khuyến khích, đặc biệt khi còn đó những lo ngại lạm phát có thể bùng phát trở lại vào tháng 11, 12 theo chu kỳ mùa vụ và khi tăng trưởng tín dụng của năm sau dự kiến chỉ 12%, thấp hơn chỉ tiêu của năm nay. Điều này đã ảnh hưởng tức thì đến sự phát triển tín dụng của các ngân hàng. Để có nguồn vốn dự phòng cuối năm và hạn chế rủi ro tỷ giá, nhiều ngân hàng giảm dư nợ cho vay. Địa chỉ thu nợ đầu tiên và hạn chế cho vay mới được ngân hàng nhắm đến là bất động sản.    
Thứ hai, việc áp dụng triệt để trần lãi suất huy động 14%/năm, trong bối cảnh giá vàng biến động mạnh, đã khiến một phần nguồn tiền trong dân chuyển từ tiền đồng sang vàng. Vốn huy động tiền đồng tháng 9 giảm có sự góp sức của yếu tố này. Bên cạnh đó, tiền gửi cũng chuyển hướng từ ngân hàng yếu kém về ngân hàng lớn. Hiện tượng thiếu thanh khoản xảy ra ở những ngân hàng yếu kém, đẩy mặt bằng lãi suất cho vay lên cao và việc thu nợ càng trở nên cấp thiết.
Hai tháng qua tín dụng bất động sản đã bị “điểm danh” và thu nợ, giảm cho vay mới chỉ bắt đầu. Việc vay vốn của giới kinh doanh bất động sản sẽ còn khó khăn hơn nhiều trong năm 2012.
Trước những dấu hiệu của “cơn bão” bất động sản, ngày 4-11-2011 NHNN đã ban hành văn bản yêu cầu các ngân hàng báo cáo gấp dư nợ tín dụng bất động sản. Cho dù số liệu dư nợ là bao nhiêu, và ngay cả khi tiến độ thu nợ có thể được giãn, các đợt giảm giá bất động sản sẽ còn gia tăng. Công ty cổ phần Phát triển nhà Từ Liêm (NTL-HSX), một doanh nghiệp không vay nợ, có hàng trăm tỉ đồng gửi ngân hàng, mà cũng vừa giảm giá bán đất biệt thự 20-25%. Những doanh nghiệp bất động sản có nợ đáo hạn hẳn đang cảm thấy nước đã đến chân mình.
____________________________________
(Mời xem thêm bài “Phía trước vẫn là màu xám” và bài “Từ cảnh báo của đại biểu Quốc hội” liên quan đến tình hình tài chính của các công ty bất động sản và tín dụng bất động sản).

http://www.thesaigontimes.vn/Home/taichinh/nganhang/65335/