Showing posts with label kinh te. Show all posts
Showing posts with label kinh te. Show all posts

Monday, May 20, 2013

Kinh tế Việt Nam: Không thể điều hành theo các nguyên tắc có

Luật sư NGUYỄN TRẦN BẠT: "Tôi cho rằng tất cả những sự quan tâm cũng như sự bi quan về nền kinh tế được thể hiện bởi các lãnh đạo cấp cao trong phiên thảo luận của Thường vụ Quốc hội vừa rồi có lẽ là hơi chậm so với đòi hỏi của thực tế. Tình hình kinh tế đúng là khó khăn thật. Trong một bài trả lời phỏng vấn báo Đại Đoàn Kết, tôi đã nói rằng tôi thông cảm đến chi li cái khó khăn mà Chính phủ đang phải gánh. Khó khăn này không nói ra được, không kêu lên được…Sản xuất không phát triển được thì lấy đâu ra phương tiện để giải quyết vấn đề lao động thất nghiệp, và không giải quyết được vấn đề thất nghiệp thì lấy gì mà giải quyết sức mua."
Điều hành vĩ mô là một khái niệm khoa học, không phải là một thuật ngữ chính trị
 
Tôi cho rằng, tất cả những sự quan tâm cũng như sự bi quan về nền kinh tế được thể hiện bởi các lãnh đạo cấp cao trong phiên thảo luận của Thường vụ Quốc hội vừa rồi có lẽ là hơi chậm so với đòi hỏi của thực tế. Tình hình kinh tế đúng là khó khăn thật. Trong một bài trả lời phỏng vấn báo Đại Đoàn Kết, tôi đã nói rằng tôi thông cảm đến chi li cái khó khăn mà Chính phủ đang phải gánh. Khó khăn này không nói ra được, không kêu lên được. Điều hành vĩ mô là một khái niệm khoa học, nó không phải là một thuật ngữ chính trị để nói một cách đơn giản trên các phương tiện truyền thông. Điều hành vĩ mô là một loại hoạt động xã hội, một loại công nghệ chỉ đạo sự dao động, chuyển động của một cơ cấu đã được thiết kế và chuẩn bị phù hợp với các công cụ  điều tiết vĩ mô.
 
Nền kinh tế không theo những nguyên tắc sẵn có trên thế giới
 
Tôi cho rằng chúng ta có một nền kinh tế khó điều hành vĩ mô theo quy luật của nhiều nền kinh tế trên thế giới, bởi vì nền kinh tế của chúng ta được thiết kế, được sắp đặt hoàn toàn không theo những nguyên tắc sẵn có trên thế giới. Cho nên nó không phải là một thực thể có thể điều hành bằng những công cụ phổ quát trên thế giới. Người ta điều hành vĩ mô một nền kinh tế là điều hành bằng chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa, thông qua các công cụ như tỷ giá, lãi suất, thuế, kiểm soát đầu tư công, chi tiêu công… Những công cụ như vậy không ứng dụng được trong điều kiện nền kinh tế của chúng ta, vì nền kinh tế của chúng ta không được sắp đặt, không được thiết kế phù hợp với các công cụ vĩ mô ấy. Ví dụ, chúng ta dùng công cụ điều tiết vĩ mô là lãi suất chẳng hạn. Lãi suất nhiều lúc lên tới hơn 20%, vượt mọi ranh giới lãi suất thông thường mà các đồng tiền trên thế giới phải chịu đựng. Trong các sự vật có hai loại trạng thái đàn hồi được và không đàn hồi được. Có những vật  tác động vào nó nhưng sau đó  không tác động nữa thì nó vẫn có thể quay trở về dạng ban đầu. Còn có những vật  tác động vào nó và sau đấy dừng lại thì nó không thể quay trở về dạng ban đầu được nữa. Nền kinh tế của chúng ta không phải là một cấu trúc đàn hồi, vì thế không tác động bằng các công cụ vĩ mô thông thường được.
 
Thật ra có vẻ như chúng ta cũng chưa hiểu nhiều về các công cụ, các chính sách vĩ mô. Ví dụ, trên thực tế chúng ta không có nền công nghiệp đúng nghĩa, kể cả công nghiệp phụ trợ, tức là không có sản xuất nhưng ta lại kích cầu. Chúng ta có gói kích cầu vào năm 2008, và hệ quả của gói kích cầu ấy là lạm phát và ta phải cố gắng để hạn chế lạm phát về mặt hình thức. Bởi vì công cụ vĩ mô là kích cầu ấy không ứng dụng được trong nền kinh tế. Chúng ta không có công cụ, không có tổng phổ của nền kinh tế để kiểm soát sự phân bố tiền vốn, sự phân bố quy mô đầu tư vào từng khu vực. Ví dụ chúng ta thấy xuất hiện rất nhiều cảng, thậm chí đã từng bàn đến vấn đề đường sắt cao tốc… Tất cả những nguyện vọng, những thể hiện như vậy cho thấy cấu trúc của nền kinh tế của ta có vấn đề.
 
LS Nguyễn Trần Bạt
                                                                              Ảnh: T.L
 
Chúng ta cũng không phải là nền kinh tế có thể cứu hộ theo các công cụ truyền thống
 
Nền kinh tế này khó điều hành vĩ mô, vì nó không có cấu trúc tương thích với bất kỳ công cụ điều tiết vĩ mô nào mà thế giới đã nghĩ ra. Đấy mới chỉ là một nguy cơ. Nguy cơ thứ hai cũng không kém phần quan trọng là nền kinh tế của ta không cứu trợ được, vì  không tương thích với bất kỳ cấu trúc kinh tế nào trên thế giới. Ta thấy là chỉ một Cộng hòa Síp thôi đã gây ra cả sự chấn động khổng lồ ở châu Âu, bởi vì có một bộ phận đen tối trên thế giới tập trung tiền tệ và quyền lực ở khu vực ấy và tạo ra một quốc gia có những mảng đen tối lớn đến mức lấn át cả quyền lực của chính phủ cầm quyền.
 
Chúng ta không phải là nền kinh tế có thể cứu hộ theo các công cụ truyền thống mà thế giới vẫn cung cấp để cứu hộ các nền kinh tế. Đấy là một nguy cơ có thật. Ta có thể đi xin tiền, có thể đi vay tiền, nhưng hệ thống của ta không đủ chặt chẽ để chịu đựng các thử thách của các thể chế kinh tế định cứu chúng ta, chẳng hạn như IMF. Rất nhiều nước châu Á trước đây không chịu đựng nổi kỷ luật của IMF trong việc cứu hộ, và do đó nó không được hưởng những cứu hộ như vậy. Coi chừng ta cũng có thể rơi vào tình trạng tương tự.
 
Lãi suất như ở Việt Nam là lãi suất của một thị trường tiền tệ cho chính nó, chứ không phải cho sản xuất
 
Về gói cứu trợ thị trường BĐS 30.000 tỷ đã được chính thức tung ra tôi không nói thêm gì về chuyện này, nhưng tôi cảnh báo mọi người phải nhìn nhận một cách thận trọng. Khi đưa ra các bình luận tích cực về các hiện tượng như vậy cần phải thận trọng. Lãi suất như ở Việt Nam là lãi suất của một thị trường tiền tệ cho chính nó, chứ không phải cho sản xuất. Trên thế giới không ai sản xuất mà phải chịu đựng lãi suất tới 10%/ năm chứ chưa nói đến 20-30% như thời điểm trước đó. Chúng ta không có nền kinh tế công nghiệp, bởi vì tín dụng như vậy không phải là tín dụng để cung cấp cho phát triển công nghiệp. Phát triển công nghiệp là gì? Tất cả những chuyện kinh doanh từ vật liệu, nguyên liệu, năng lượng nằm trong đấy cả nên lãi thật của khâu công nghiệp ấy có một tí xíu thôi. Cho nên phải chịu đựng lãi suất tín dụng như vậy thì chắc chắn là không ai làm được. Cả trăm nghìn xí nghiệp bị mắc bệnh "cúm H5N1” cùng một lúc.
 
Sản xuất không phát triển được thì lấy đâu ra phương tiện để giải quyết vấn đề lao động thất nghiệp, và không giải quyết được vấn đề thất nghiệp thì lấy gì mà giải quyết sức mua. Không có sức mua thì lấy đâu ra cơ hội để giải quyết vấn đề phát triển kinh tế. Chúng ta có một thị trường kinh doanh tiền tệ nằm bên ngoài mọi khu vực kinh tế. Với trạng thái này thì khó có thể can thiệp nổi bằng những chính sách điều hành vĩ mô, đồng thời sẽ bị chi phối bởi nhóm lợi ích.
 
Chỉ có thể tái cấu trúc nếu tìm được đồng thuận
 
Thủ tướng Chính phủ nói rất đúng là cần phải tái cấu trúc, nhưng tái cấu trúc như thế nào thì cá nhân tôi chưa thấy rõ. Bản chất của tái cấu trúc là tái cấu trúc lại tư tưởng kinh doanh trong mỗi một ngành công nghiệp, tái cấu trúc lại khuynh hướng của một nền kinh tế... Không thấy những dấu hiệu như vậy thì làm sao nói tái cấu trúc được. Cải cách có phải cứ muốn làm thì làm được ngay đâu, bởi không ai có đủ quyền lực tuyệt đối để làm bất kỳ cái gì mình muốn. Cải cách bao giờ cũng là kết quả của một cuộc vận động xã hội sâu sắc và tìm kiếm được những điểm đồng thuận tới hạn, và người ta chỉ có thể cải cách đến điểm đồng thuận ấy mà thôi. Phải tìm được điểm đồng thuận thì mới có cải cách.
 
Cỗ xe kinh tế đã chạy quá nhanh
 
Có lần trả lời báo Đại Đoàn Kết tôi có nói là chúng ta đã có một thời kỳ hội nhập nghiêm túc, chúng ta đã tham gia các công ước quốc tế, các hiệp ước quốc tế một cách khá nghiêm túc và khá bài bản. Những năm sau này, chúng ta đã trượt ra khỏi các trạng thái bài bản ấy do sự hăng hái thái quá, sự năng động thái quá trong điều hành nền kinh tế. Đấy là một trong những nhược điểm của điều hành kinh tế giai đoạn vừa rồi. Nếu không khen, không động viên hay không đánh giá được công lao trong điều hành kinh tế giai đoạn vừa qua thì chúng ta không công bằng. Nếu không có nhược điểm ấy thì nền kinh tế sẽ lờ đờ đi. Điều đó cũng đồng nghĩa với việc chẳng gợi cho chúng ta bất kỳ điều gì. Nhưng nền kinh tế chạy nhanh quá thì nó có thể sa xuống hố. Nhân đây xin nói thêm, tôi đã viết một bài nhan đề "Con ngựa và cỗ xe kinh tế Việt Nam”, trong đó tôi nói là con ngựa chạy nhanh quá mà quên mất rằng cỗ xe kinh tế mà nó đang kéo không được thiết kế để chạy với tốc độ như vậy. Hầu hết các chủ thể đã văng ra, chỉ còn lại rất ít.

Sunday, May 12, 2013

Cần “chiếc phanh” để kinh doanh đừng trượt đến tội ác


(TBKTSG Online) - Đạo đức trong kinh doanh đang ngày càng trở thành vấn đề gây bức xúc trong xã hội. Từ làm hàng gian, hàng giả cho đến sử dụng hóa chất độc hại trong sản phẩm và sử dụng ưu thế thị trường để o ép người tiêu dùng. Nhà nghiên cứu Nguyễn Trần Bạt, Chủ tịch, Tổng giám đốc Investconsult Group, trò chuyện với TBKTSG Online về vấn đề này.
TBKTSG Online: Thưa ông, câu hỏi về đạo đức kinh doanh ở một thị trường lớn như Việt Nam vẫn chưa có lời đáp. Xin mở đầu bằng chuyện thị trường sữa. Ở một nước đời sống đại đa số dân ở mức thấp, giá sữa lại rất đắt và bị quảng cáo thổi phồng một cách phi lý như một hành vi lừa người tiêu dùng. Ông suy nghĩ gì?
- Ông Nguyễn Trần Bạt: Đạo đức kinh doanh theo tôi là năng lực để thực hiện các cam kết của người sản xuất, người buôn bán với xã hội và với nhau. Trong một sản phẩm luôn hàm chứa cam kết của người sản xuất, người cung ứng đối với xã hội, tức là bản thân nó là một hợp đồng. Khi không đủ năng lực để thỏa mãn hợp đồng ấy thì người ta buộc phải cung cấp các sản phẩm gian dối.
Gian dối là một trong những giải pháp để khắc phục sự thua thiệt trong cạnh tranh khi người ta không đủ năng lực để thỏa mãn các cam kết lành mạnh. Muốn có sữa mà không đủ năng lực nuôi bò thì chúng ta buộc phải mua sữa bột, sữa không biết chắc chắn nguồn gốc của nó và đó là tiền đề của việc cung cấp những sản phẩm không có chất lượng.
Hậu quả là sức khỏe toàn xã hội sẽ suy giảm, độ nhạy tiêu dùng của xã hội sẽ suy giảm. Xã hội chúng ta sẽ biến thành một xã hội không có tiêu chuẩn, không có phẩm hạnh, dùng thoải mái những thứ không dành cho con người. Chấp nhận những sản phẩm phi con người là làm phi con người hóa. Con người sinh ra là để tinh khôn, để giữ gìn được sự lành mạnh về thể chất và tinh thần. Những sự phi lành mạnh hóa về thể chất là những bước đầu tiên dẫn tới sự phi lành mạnh hóa đời sống tinh thần. Tức là chúng ta chấp nhận một cách phi con người những sản phẩm, những đối tượng dành cho con người.
Nguồn lực con người bị triệt tiêu dần cả về vật chất lẫn tinh thần. Năng lực sản xuất của xã hội cũng bị triệt tiêu dần vì nó không cần phải có những sản phẩm nghiêm túc, mà ngược lại nó có thể được thỏa mãn bằng những sản phẩm láu cá và phi đạo đức.
Nhưng không phải chỉ có thị trường sữa mà còn rất nhiều thị trường hoặc sản phẩm khác cũng có những vấn đề tương tự. Nói cách khác vấn đề của thị trường sữa là một trong những dấu hiệu để phản ánh trạng thái suy thoái về mặt con người trong quá trình vận hành và phát triển một nền kinh tế thị trường.
Bởi chúng ta đều tham vọng về quyền lực, tiền bạc, danh tiếng… không phải doanh nghiệp, doanh nhân nào đang sa chân theo con đường ấy cũng biết giật mình lùi lại?
- Kinh doanh nào cũng có yếu tố đi ngược lại với lợi ích chung, bởi kinh doanh là hành vi riêng có của từng cá thể hoặc từng nhóm lợi ích. Nếu nói một cách rộng ra, suy luận một cách thoải mái thì phải nói rằng chúng ta không được giáo dục đầy đủ khái niệm về quyền con người cho nên chúng ta vi phạm quyền con người một cách ngây thơ, một cách tự nhiên và bản năng. Chính sự vi phạm quyền con người một cách bản năng làm xuất hiện những kẻ chuyên nghiệp vi phạm các quyền con người, cung cấp cho con người những sản phẩm dành cho những thứ không người.
Nếu những nhà hoạt động chính trị không có tham vọng quyền lực, những nhà kinh doanh không có tham vọng về quyền lợi thì sẽ không có cả kinh doanh lẫn chính trị. Cho nên tham vọng của họ chỉ tiêu cực khi nó trở nên thái quá, còn ở thời điểm trước sự thái quá ấy nó hoàn toàn tích cực. Tôi không lên án tham vọng về quyền lợi của các nhà kinh doanh, tham vọng về quyền lực của các nhà chính trị, mà thậm chí tôi khuyến khích họ. Vấn đề là xã hội phải hình thành một phòng tuyến đạo đức để tránh tất cả những sự thái quá của họ.
Đối với các nhà kinh doanh thì bằng thể chế kinh tế, bằng giáo dục những kiến thức cơ bản để họ không điềm nhiên thái quá. Đối với các nhà chính trị thì sự thất bại hay sự không hài lòng của nhân dân đối với họ phải được phản ánh bằng báo chí một cách phổ biến, và đấy là một tấm gương để họ nhận ra rằng sự thái quá của họ xuất hiện vào thời điểm nào và nên lùi lại như thế nào. Khi nào mà thể chế không kiểm soát được sự khác biệt hoặc sự mâu thuẫn trong quyền lợi cá nhân, quyền lợi của nhóm lợi ích với quyền lợi của xã hội thì luôn luôn xảy ra trạng thái mà chúng ta đang bàn.
Giá trị nào là mỏ neo để ta lùi về và neo lại?
- Tất cả mọi người đến một thời điểm nào đó đều hạ cánh, đều lùi cả. Lùi về đâu? Tôn giáo đã chỉ ra rất rõ có hai điểm lùi cho khái niệm tham vọng. Nếu nó thái quá và tiêu cực thì nó lùi về địa ngục, còn nó hăng hái, nó tích cực, nó cao thượng thì nó có một điểm lùi là thiên đường. Thượng đế chính là các giá trị cơ bản của mỗi người. Tiêu chuẩn để đạt được việc lên thiên đường, có chỗ đứng bên cạnh thượng đế chính là các tiêu chuẩn cơ bản của nhân cách của con người.
Có rất nhiều đơn vị sản xuất kinh doanh, rất nhiều doanh nghiệp, kể cả những người sản xuất nhỏ lẻ cũng đặt tiền lên trên hết qua hành động cho thuốc độc vào trong thức ăn, cho thuốc độc vào trong các sản phẩm mình làm ra để có lợi nhuận cao nhất. Có những người như vậy và địa ngục đang chờ đón họ. Tác giả của tất cả những sự cao thượng đều biết rất rõ rằng nếu họ không được lên thiên đường thì ít nhất họ cũng đứng được ngoài cửa.
Con người gây ra tai họa bằng hai lý do, ngu ngốc và độc ác. Những ai gây ra tai họa bằng ngu ngốc thì có một cơ hội đó là xám hối, còn những ai gây ra tai họa bằng sự độc ác thì không có cơ hội ấy. Nếu để ý chị sẽ thấy hạnh phúc đằng sau sự về hưu của rất nhiều người mà chị cho là có quyền lực, và chị sẽ thấy những người tạo ra tội ác bằng sự độc ác thì chỗ hạ cánh của họ là địa ngục.
Địa ngục ở trong chính mình. Cho nên điều chỉnh thân phận của con người chính là điều chỉnh độ đậm nhạt của “chất lượng địa ngục” ở trong mỗi một tâm hồn con người.
Nhưng chúng ta vẫn nói tường thấp thì kẻ trộm mới tới. Một nguyên nhân quan trọng ở đây là do cơ quan quản lý đã để những hàng rào bị thủng mà qua đó người ta vẫn có thể cung cấp được các dịch vụ, sản phẩm gian dối?
Chúng ta không kiểm soát được. Nhà nước không tổ chức ra được những chính sách, những hàng rào kỹ thuật để kiểm soát chất lượng. Tức là chúng ta không nhìn thấy vấn đề con người và sức khỏe con người như một yếu tố tất yếu phải có trong sự phát triển kinh tế, xã hội. Đồng thời nhân dân chúng ta cũng không được giáo dục đầy đủ để hiểu rằng bán được những mặt hàng có thể làm suy thoái, làm chết người là một tội ác. Vì thế ở đây có cả hai khuyết điểm. Khuyết điểm về phương diện quản lý nhà nước là chúng ta không đủ năng lực để kiểm soát chất lượng đạo đức của sản phẩm cũng như giáo dục không đủ để có thể kiểm soát, gìn giữ trạng thái đạo đức nhân văn. Đây là khuyết điểm của cả đời sống tinh thần lẫn đời sống quản lý kinh tế.
Cái tôi muốn nói khái quát hơn không phải chỉ có chuyện người ta cho chất độc vào sữa. Bởi cho chất độc vào sữa chỉ là một trong các biểu hiện tiêu cực, còn có những thứ chất độc vẫn đang được đưa vào một cách đại trà trên nhiều sản phẩm, kể cả sản phẩm tinh thần mà không bị lên án. Dư luận mới chỉ đủ dũng cảm để kêu gọi người ta kiểm soát những tội ác khi cho chất độc vào thức ăn mà chưa đủ dũng cảm cũng như thông thái để kêu gọi đừng cho các loại chất độc khác vào những sản phẩm khác, không chỉ những sản phẩm mà con người nuốt vào trong mình, mà còn cả những sản phẩm mà họ nhận vào trong miền tinh thần của mình.
Chúng ta không biết và không thể đến tận nơi, cũng không đủ năng lực, đủ sức mạnh để đến vạch mặt chỉ tên những đối tượng cụ thể, chúng ta phải nương nhờ vào thể chế. Cho nên lời kêu gọi của tôi là thể chế phải được xây dựng để kiểm soát tội ác.
Thể chế chính là những quy tắc để chúng ta điều hành một xã hội làm cho nó càng ngày càng lành mạnh hơn. Những thể chế nào mà các quy tắc của nó không đủ sức mạnh để kiểm soát tội ác thì thể chế ấy vứt đi hay đến lúc vứt đi.
Còn người tiêu dùng, họ có lỗi không nếu cố tình mua những thứ độc hại ấy?
- Còn người tiêu dùng thì không phải dễ dãi mà người tiêu dùng bí. Chúng ta uống sữa có melamine thì phải mất 10 năm mới chết, nhưng nếu chúng ta không có tí gì để ăn thì chỉ 10 ngày là chết. Chính vì thế người ta chấp nhận ăn những thứ mà người ta biết chắc là ăn vào có hại.
Thứ hai, người tiêu dùng không có tiền thì phải mua hàng rẻ tiền, mà hàng rẻ tiền thì đương nhiên chất lượng của nó cũng rẻ theo. Độ rẻ tiền của các sản phẩm luôn luôn phù hợp với vốn đầu tư để nhồi vào sản phẩm và năng lực tiêu dùng của khách hàng. Về bản chất nâng cao năng lực đạo đức trong tiêu dùng chính là nâng cao túi tiền để chúng ta có thể mua được những hàng hóa có chất lượng tốt. Đấy là góc độ kinh tế học của việc chống tiêu cực trong cung cấp các sản phẩm cho con người.
Và cũng vì còn nhiều hiện tượng gian dối trong kinh doanh khiến xã hội vẫn còn quan niệm coi thường những người làm kinh doanh, người giàu, dường như điều này trì kéo sự phát triển của chúng ta hơn?
- Tôi nghĩ đấy là một cái sai khủng khiếp. Hoạt động kinh doanh là một hoạt động thuộc về con người. Chúng ta có thể tôn trọng con người, kính trọng con người, nhưng chúng ta không thích các hoạt động kinh doanh thì đấy là do thói quen của xã hội phi kinh doanh như xã hội của chúng ta từ những năm 90 trở về trước.
Nhiều nhà kinh doanh từng là anh hùng trong đời sống không kinh doanh và đang cố gắng muốn trở thành anh hùng trong đời sống kinh doanh. Tôi không lên án họ, không ghét bỏ họ được và càng không thể coi thường họ. Đất nước của chúng ta cần những con người đặc biệt như thế, nhưng không cần nhiều, mà cũng không có nhiều.
Cái chúng ta cần là nhiều người biết đến sự đúng đắn, sự cao thượng chứ không phải nhiều sự cao thượng, nhiều sự cao quý, nhiều sự đặc biệt. Một quốc gia, một dân tộc, một cộng đồng con người phát triển một cách bình thường bằng những người bình thường, nhưng nó được hướng thiện, hướng thượng bằng những yếu tố dị thường. Cái tối đa mà con người cần là sự kính trọng đối với sự cao thượng chứ không phải bắt chước sự cao thượng. Không phải ai cũng đi dép cao su và ăn cà như Bác Hồ được, nhưng sự kính trọng về đôi dép cao su và về quả cà rất cần thiết, bởi nó là chiếc phanh để con người dừng lại trước khi trượt đến tội ác.

Thursday, April 11, 2013

Thời trang phụ nữ, tâm lí, và kinh tế

Theo quan niệm bảo thủ ngày xưa, quần áo chỉ là những vật dụng để che thân thể khỏi gió mưa, nắng lạnh, nên không cần thay đổi. Tuy nhiên, ngày nay quan niệm này không còn thích hợp với đà phát triển kinh tế và sự tiến triển xã hội nữa. Y phục không chỉ là vật che nắng che mưa, mà còn là một biểu tượng về thẩm mĩ. Năm 1934, Họa sĩ Nguyễn Cát Tường tuyên bố "Theo ý tôi, quần áo tuy dùng để che thân thể, song nó có thể là tấm gương phản chiếu ra ngoài cái trình độ trí thức của một nước. Muốn biết nước nào có tiến bộ, có mĩ thuật hay không, cứ xem y phục của nước đó, ta cũng đủ hiểu". Ông tung ra thị trường một kiểu áo dài Lemur, được mô phỏng theo áo đầm Tây phương, với nối vai và tay phồng, cổ lá xen, và cài khuy trên vai. Đến năm 1934, Họa sĩ Lê Phổ kết hợp giữa cải biên áo tứ thân và áo Le Mur bên Pháp cho ra kiểu áo dài rất gần với áo dài tân thời ngày nay. Kể từ đó, nói chung, về chiếc áo dài của ta không thay đổi bao nhiêu, ngoài những thay đổi nhỏ về cổ áo (lúc cao, lúc thấp), gấu áo (lúc vén cao, lúc hạ thấp), và eo áo (lúc nhỏ, lúc to), thì nó vẫn là cái … áo dài.
Người Việt Nam chúng ta, có lẽ vì duy cảm, nên thích nhìn trang phục qua lăng kính thơ văn. Thấy một cô gái mặc áo trắng, thi sĩ tưởng tượng cô gái là một người trong trắng, ngây thơ "Áo trắng đơn sơ, mộng trắng trong" (Huy Cận). Khi nàng mặc áo màu vàng hay xanh, thi sĩ liên tưởng đến những loài hoa, với một tình cảm vu vơ, nhẹ nhàng, nhưng kín đáo: "Áo nàng vàng, anh về yêu hoa cúc / áo nàng xanh, anh mến lá sân trường" (Nguyên Sa).
Nhưng y phục còn có ý nghĩa kinh tế. Y phục phản ánh thành phần giai cấp trong xã hội, người giàu có, quyền thế thường mặc quần áo sang trọng, dùng các loại vải hay lụa đắt tiền và hiếm, được cắt may cầu kì và phức tạp; ngược lại, người nghèo hay thuộc giai cấp lao động chịu bó mình trong các loại quần áo đơn giản, rẻ tiền. Do đó, đối với người Tây phương quen tính "cân đo đong đếm", họ không những chỉ nhìn y phục phụ nữ như là một biểu hiện về thẩm mĩ, mà còn liên tưởng đến nền kinh tế của một quốc gia.
Một vài nghiên cứu gần đây, dù không nhiều và còn hạn chế, đã cho thấy vài khuynh hướng lí thú về sự biến dạng của y phục phụ nữ và những biến động có liên quan đến kinh tế xã hội. Thực vậy, một trong những hiện tượng mà ai cũng dễ dàng ghi nhận là thời trang y phục phụ nữ thay đổi theo thời gian. Chẳng hạn như thời đại của Nữ hoàng Victoria và Hoàng đế Edward, phụ nữ thích những kiểu áo có hình chữ S; tức là, phần ngực được làm cho lớn ra, phần eo nhỏ thon lại, và phần mông rộng ra. Qua đến những thập niên đầu tiên của thế kỉ 20, kiểu áo Empire bắt đầu xuất hiện, với đường eo được nâng cao lên tới phía dưới ngực một chút, vòng cổ hình có chữ V (dù có người đề nghị nên mang cái gì đó khiêm tốn để che dấu bộ ngực!) Rồi dần dà theo thời gian, kiểu áo hình chữ S và Empire được thiết kế trở thành thon hơn, phần eo được nới rộng ra, phần ngực và mông làm cho tự nhiên hơn, và chiều dài cũng ngắn gọn hơn, làm cho người mặc có dáng điệu mảnh khảnh hơn. Cho tới nay, kiểu áo giống như veston của đàn ông (được mô phỏng theo kiểu "cardigan style suit" do nhà tạo mẩu nổi tiếng Chanel sáng chế vào thập niên 30) rất được ưa chuộng.
Theo khẩu hiệu This goes with that (cái này đi với cái kia), các kiểu quần cũng biến dạng theo các kiểu áo, và một trong những thay đổi quan trọng nhất là độ dài. Ngày xưa, váy thường được thiết kế dài cho tới mắt cá chân, làm tăng sự kín đáo và thanh tao của người phụ nữ. Theo thời gian, chiếc váy này tuy không thay đổi kiểu bao nhiêu, nhưng chiều dài càng ngày càng ngắn hơn, lúc đầu còn dài hơn đầu gối một chút, sau này rút ngắn lại chỉ còn trên đầu gối! Tuy theo cách nhìn của từng người, nhưng nói chung kiểu váy cũn cỡn này mang lại một dáng điệu năng động, linh động, và có thể nói là khêu gợi, thách thức của người phụ nữ.
Không hài lòng với sự thách thức đó, ngày nay -- có lẽ theo phong trào bình đẳng nam-nữ -- phụ nữ có khuynh hướng mặc y phục giống ... đàn ông! Họ cũng mặc veston, thắt cà-ra-vát, vận quần Tây hai ống. Nhưng thay vì kiểu quần áo rộng rãi của đàn ông, các nhà tạo mẫu làm cho bộ đồ này ôm sát theo thân thể của người phụ nữ, làm cho nổi bật những đường cong nữ tính, như cố ý phô trương ngực, eo và mông. Vì veston thường là loại trang phục cho những người đàn ông có địa vị trong xã hội, những người lao động trí óc (gọi chung là "professionals"), nên kiểu trang phục này làm cho người phụ nữ vừa sang trọng một cách duyên dáng, vừa thanh nhã và bảnh bao.
Câu hỏi được đặt ra là sự tiến hóa của thời trang phụ nữ qua từng giai đoạn là một quá trình ngẫu nhiên, hay một phản ảnh về các biến động xã hội-chính trị. Một số nhà nghiên cứu thời trang cho rằng kiểu mẩu của quần áo được sáng chế ra hoàn toàn ngẫu nhiên bởi các nhà tạo kiểu, không có dính dáng gì đến những dao động nội tâm hay chu kỳ tâm lý của con người. Ngược lại, Nhà thơ người Pháp, Anatole France, có lần nói rằng thời trang phụ nữ có thể nói cho chúng ta biết về tương lai của nhân loại chính xác hơn những tiên đoán của các triết gia, nhà văn, tu sĩ hay khoa học gia. Nhận xét này xem ra có lí, nếu chúng ta chịu khó tìm hiểu những biến đổi về thời trang và mối tương quan của nó với thái độ của xã hội đối với phụ nữ hay phụ nữ đối với xã hội. Theo quan điểm này, thời trang là một phản ứng trước những tác động từ ngoại cảnh xã hội.
Vấn đề chính của quan điểm thứ hai này là chưa có bằng chứng gì giải thích cụ thể và hợp lí những "ngoại cảnh xã hội" là gì. Năm 1971, trong một luận án Cao học thuộc Trường Đại học Tennessee (Mĩ), sinh viên Mabry ghi nhận mối tương quan giữa thời trang và các sự kiện ngoại cảnh, rằng trong thời gian 50 năm (từ năm 1921 tới 1970), chiều dài của y phục mà người mẫu mặc liên quan với các chỉ số thị trường chứng khoán. Cụ thể hơn: khi giá cổ phần tăng, chiều dài y phục phụ nữ trở thành ngắn hơn; khi giá cổ phần giảm, y phục phụ nữ dài ra.
Dù kết quả nghiên cứu này nghe qua có vẻ lạ lùng, nhưng cũng gây sự chú ý của một hãng buôn bán cổ phần ở New York lúc đó. Giới khoa bảng thì không ngừng nhạo báng thuyết trên của Mabry, vì họ cho rằng mối tương quan này mang tính giả tạo. Nó có thể là những số liệu thật (fact), nhưng không phản ánh một sự thực (truth). Nói cách khác, mối tương quan mà Mabry ghi nhận có thể do một yếu tố gián tiếp khác tác động đến, chứ không dính dáng trực tiếp đến thị trường chứng khoán.
Tuy nhiên, chúng ta có thể đặt mối quan hệ giữa thời trang và chỉ số thị trường chứng khoán qua một yếu tố trung gian, chẳng hạn như yếu tố liên quan đến kinh tế hôn nhân (marital economics). Trong thuyết kinh tế hôn nhân, người ta cho rằng tầm quan trọng mà người phụ nữ gắn bó với hôn nhân sẽ thay đổi tùy vào hai bối cảnh: cơ hội hôn nhân và cơ hội công ăn việc làm. Cơ hội hôn nhân được thể hiện qua tỉ lệ giới tính, tức là bao nhiêu phần trăm đàn ông và phụ nữ trong một dân số. Cơ hội công việc lại tùy thuộc vào sự trồi sụt, lên xuống, tròn khuyết của nền kinh tế, được thể hiện qua chỉ số thị trường chứng khoán.
Để thử nghiệm giả thuyết này, một số nhà nghiên cứu đã chịu khó phân tích mối tương quan giữa thời trang và cơ hội hôn nhân, cơ hội công ăn việc làm. Hai nhà nghiên cứu Richardson và Kroeber đã bỏ ra nhiều năm nghiên cứu thời trang của phụ nữ trong ba thế kỉ liền. Họ thu thập tất cả những hình ảnh từ tạp chí, sách báo thời trang dành cho phụ nữ, và các tác phẩm họa trong thư viện. Họ tập trung nghiên cứu các kiểu trang phục mùa đông (tháng Một tới tháng Ba) vì những tháng này phụ nữ có khuynh hướng phô trương thời trang hơn các tháng khác. Những nước mà họ chú ý nhiều nhất là Pháp, Ý, Đức, Hòa Lan và Mỹ. Họ suy luận rằng thời trang xuất phát từ Paris và từ đó lan rộng hay truyền bá qua các nước khác trên thế giới.
Trong mỗi kiểu trang phục, họ đo chiều dài của váy, chiều rộng của eo (tức là một đo lường gián tiếp về đường cong nữ tính), và độ dài của cổ áo (chiều sâu hình chữ V) và độ hở cổ (giữa hai dây đai trên vai). Tất cả các đo lường này được ước tính và chuẩn hóa theo hình họa, tính từ môi đến bàn chân. Môi, thay vì tóc, được chọn làm điểm tham chiếu, vì đo từ miệng chính xác hơn là đo từ tóc (do phụ nữ có thể dùng tóc giả!) Ngoài thời trang, các nhà nghiên cứu còn bỏ công thu thập các chỉ số liên quan đến kinh tế xã hội như tỉ lệ li dị, tỉ lệ dân số có bằng cấp đoại học, tỉ lệ giới tính (tức là bao nhiêu phần trăm phụ nữ trong dân số), v.v. Sau khi dùng các phương pháp phân tích thống kê, hai nhà nghiên cứu trình bày một số kết quả chính như sau:
(i) Mức độ tương quan giữa tỉ lệ li dị và tỉ lệ phụ nữ có bằng đại học rất cao: khi tỉ lệ phụ nữ có trình độ đại học tăng, tỉ lệ li dị cũng tăng theo;
(ii) Độ dài của váy tăng theo tỉ lệ nghịch với tỉ lệ li dị: khi tỉ lệ li dị giảm, chiều dài của váy tăng;
(iii) Độ dài của váy biến động theo tỉ lệ thuận với trình độ học vấn. Khi tỉ lệ phụ nữ có bằng đại học tăng, chiều dài của váy trở thành ngắn hơn;
(iv) Khi tỉ lệ phụ nữ trong dân số tăng, váy trở thành dài hơn. Khi tỷ tỉ đàn ông trong dân số tăng, eo áo trở thành nhỏ hơn, tức là đường cong nữ tính tăng, váy trở thành ngắn hơn.
Ngoài cuộc nghiên cứu trên đây, còn có một cuộc khảo sát thú vị khác. Trong một cuộc khảo cứu trên khoảng 100 phụ nữ, các nhà nghiên cứu cho mỗi phụ nữ mặc hai loại y phục: y phục truyền thống và y phục theo thời trang hiện đại ngày nay. Loại truyền thống, phụ nữ mặc váy dài, áo hình chữ S, làm cho ngực và mông lớn ra, và eo nhỏ lại. Loại hiện đại, phụ nữ mặc váy ngắn đến khoảng đầu gối, áo theo hình chữ S thon, tức là làm cho thân hình của người phụ nữ thon thả, mảnh khảnh, ngực và mông "khiêm tốn" hơn, và eo nới rộng ra một chút. Sau đó, họ (các nhà nghiên cứu) cho khoảng 50 người (phân nửa là nam và phân nửa là nữ) ghi nhận ấn tượng của mình về trình độ chuyên môn, sự dỏi dang trong gia đình, dục tính (sex), v.v. về các phụ nữ này. Kết quả cho thấy một quan điểm chung như sau: khi người phụ nữ mặc y phục "truyền thống" với những đường cong nữ tính, họ thường được đánh giá như là những người có dục tính cao, nhưng không giỏi dang trong công việc chuyên môn. Nhưng khi những người phụ nữ đó mặc y phục "hiện đại", họ lại được đánh giá là những người thông minh trong chuyên môn, hấp dẫn, và có trình độ học vấn cao.
Qua hai nghiên cứu này, chúng ta có thể làm một vài tiên đoán:
Thứ nhất, khi cơ hội công ăn việc làm cho phụ nữ có chiều hướng gia tăng, y phục của họ sẽ trở nên ngắn gọn và hở hang hơn. Lí do căn bản là với sự tăng trưởng về độc lập kinh tế, phụ nữ có cơ hội theo học đại học, họ trở nên ít phụ thuộc vào hôn nhân như là một phương tiện kinh tế (và tỉ lệ li dị sẽ tăng), và do đó, nhu cầu phô trương sự trong trắng, trinh tiết (như mặc quần áo dài) không quan trọng đối với họ. Điều này cũng có nghĩa là khi nền kinh tế thịnh vượng, y phục phụ nữ trở thành ngắn hơn, và có thể đây là yếu tố giải thích mối tương quan giữa thị trường chứng khoán và độ dài của y phục mà bà Mabry đã ghi nhận trong luận án của mình.
Thứ hai, khi tỉ lệ phụ nữ cao hơn tỉ lệ đàn ông trong dân số, cơ hội hôn nhân cho phụ nữ trở nên hiếm hoi hơn, phụ nữ sẽ phải cạnh tranh với nhau để được chú ý và tìm một người chồng lí tưởng. (Cố nhiên, ta phải giả dụ rằng ở đây không có chế độ đa thê!) Và một trong những chiến lược để gây sự chú ý hữu hiệu, y phục của họ sẽ trở thành ngắn hơn và “mát mẻ” hơn. Trong một môi trường như thế, số lượng phụ nữ sẵn sàng quan hệ tình dục mà không cần đòi hỏi giới đàn ông phải bảo trợ. Và đàn ông sẽ lợi dụng tình thế này mà trì hoãn hôn nhân. Ngoài ra, vì cơ hội hôn nhân thấp, nên họ quay sang chú trọng vào công ăn việc làm, tự tạo cho mình một sự nghiệp độc lập, và điều này sẽ thể hiện qua thời trang có khuynh hướng phô trương sự thông minh và "bảnh bao" của người phụ nữ, tức là ngắn gọn hơn.
Tuy nhiên, khi tỉ lệ phụ nữ ít hơn tỉ lệ đàn ông trong dân số, cơ hội hôn nhân cho họ (phụ nữ) không thành vấn đề, nhưng họ cần một sự đầu tư cao từ người chồng tương lai như là một điều kiện của hôn nhân. Do đó, họ không có nhu cầu phải tìm công ăn việc làm, và vì thế xác suất mà họ theo đuổi một sự nghiệp độc lập rất thấp. Trong bối cảnh này, trinh tiết là một công cụ và chiến lược quan trọng để nâng cao giá trị của thị trường hôn nhân. Trong tình thế này, y phục của họ sẽ dài và kín đáo hơn.
Thứ ba, khi giá trị của hôn nhân được coi trọng, tỉ lệ li dị thấp, có thể đoán được rằng y phục phụ nữ sẽ trở thành dài hơn, đường eo nhỏ hẹp hơn, cổ áo kín hơn; tức là những biểu hiện của sự trong trắng, truyền thống gia đình.
Nói tóm lại, bằng chứng nghiên cứu cho thấy thời trang phụ nữ không phải ngẫu nhiên và tùy ý, nhưng có thể bị ảnh hưởng bởi các yếu tố kinh tế xã hội. Thời trang phụ nữ đã, đang và sẽ là tiếp tục tượng trưng cho những thay đổi của xã hội và vai trò người phụ nữ.

Wednesday, April 10, 2013

Cần chia sẻ gánh nặng Chính phủ đang gánh

Kín lịch với những cuộc thuyết trình, gặp gỡ, nhưng Luật sư Nguyễn Trần Bạt vẫn luôn dành thời gian cho báo chí, bởi ông gọi đó là "quyền được trả lời phỏng vấn” và bởi ông chưa bao giờ đưa ra truyền thông một ý kiến nào không qua con đường báo chí chính thống. Dù có là cuộc gặp lần thứ mấy, dù cho vẫn là khung cảnh phòng khách quen thuộc ở trụ sở Investconsult Group trong ngõ phố Thái Hà – nơi ông là Chủ tịch, Tổng giám đốc thì mỗi cuộc trò chuyện là mỗi lần ông gây ngạc nhiên cho người phỏng vấn, bởi sự cuốn hút đặc biệt của sự mẫn tiệp dường như đang mỗi ngày mỗi tỉ lệ thuận với tuổi tác. Câu chuyện đề cập toàn diện mọi vấn đề của nền kinh tế Việt Nam trong bối cảnh chung của nền kinh tế thế giới khi chúng ta đã bước vào năm thứ 6 của thời kỳ hội nhập (tính bởi mốc gia nhập WTO). Ông truyền cho người đối thoại tinh thần tự tại của người biết hành xử việc đời.
 
Thị trường bất động sản đóng băng, tác động tiêu cực
đến nền kinh tế, đòi hỏi phải có biện pháp "giải cứu” mạnh mẽ
 
Con đường để cải thiện suy giảm tổng cầu còn vất vả
 
PV: Thưa ông, trong cuộc trò chuyện cuối năm 2012 với Đại Đoàn Kết, nguyên Phó Thủ tướng Vũ Khoan cho rằng: Năm 2013, làm sao nâng tổng cầu thì mới hồi phục được sản xuất. Giờ chúng ta đã đi hết quý I của năm 2013, và quả thật thực tế nền kinh tế đang cho thấy đó là điều không dễ?
 
LS. Nguyễn Trần Bạt: Tôi có quan điểm không ngược lại. Nhưng đó cũng không phải là một khái niệm mới. Bởi vì suy cho cùng, toàn bộ cố gắng của nhân loại là nâng tổng cầu và toàn bộ nền kinh tế thế giới đang "giãy giụa" bởi giảm tổng cầu. Giảm tổng cầu phản ánh đầy đủ tất cả các khía cạnh khác nhau của khái niệm được gọi là khủng hoảng kinh tế. Giảm tổng cầu thể hiện ở giảm việc làm và thất nghiệp. Giảm tổng cầu thể hiện khủng hoảng tài chính và tiền tệ. Giảm tổng cầu thể hiện khủng hoảng công nghiệp vì thế giảm tổng cầu là tất cả mọi khía cạnh của sự suy thoái hoặc khủng hoảng của một nền kinh tế. Giảm tổng cầu đang diễn ra trên quy mô toàn cầu, để tăng tổng cầu là toàn bộ cố gắng, toàn bộ khó khăn mà Nhà nước, Chính phủ đều đang phải đối mặt. Tất cả những bế tắc của sự phát triển kinh tế hiện nay tập trung thể hiện ở sự suy giảm tổng cầu.
 
Chúng ta cố gắng diễn đạt sự suy giảm tổng cầu này dưới những hình thức khác nhau, dưới những thuật ngữ khác nhau để cho đỡ gây hoang mang như hàng tồn kho, bong bóng bất động sản…. Đã có thời chúng ta ăn nên làm ra, mọi người có tiền và tạo ra hiện tượng phấn khởi sảng, lạc quan sảng. Cho nên chúng ta mới tạo ra một đống bong bóng, tạo ra các quả đấm thép, tạo ra thị trường bất động sản rộng lớn. Đất nước ta có 327.000 km2 đất đai. Và chúng ta đã coi đất đai như là một loại tài nguyên, giải thích đất đai là một loại tài nguyên. Trong nhận thức của chúng ta có rất nhiều vấn đề được hình thành trong quá trình phấn khích một cách không chừng mực. Chắc chắn con đường để cải thiện  tổng cầu còn vất vả.
 
Vấn đề không phải là kêu la
 
Phân tích của ông khiến trong tôi xuất hiện tâm lý AQ (vì giảm tổng cầu là vấn đề của cả nhân loại, không phải chỉ của riêng Việt Nam), nhưng đồng thời cũng thấy e ngại (vì thoát khỏi khủng hoảng kinh tế còn là con đường rất xa)?
 
- Nói những khía cạnh tiêu cực, phân tích khía cạnh tiêu cực vào lúc này làm cho tôi suy nghĩ là liệu có nên không? Bởi giống như khi cái taluy sắp trượt thì vấn đề không phải là kêu la. Cả hệ thống chính trị đều đang cố gắng. Trong khi chờ đợi hiệu ứng tích cực từ việc cải thiện tổng cầu thì chúng ta phải làm những việc khác để cải thiện những yếu tố làm chất xúc tác cho sự phát triển, ví dụ như cải thiện thể chế, nâng cao dân chủ...
 
Đây là lúc phải  củng cố thể chế
 
Thưa ông, đó là những việc lớn, có tính chiến lược lâu dài, không phải việc tình thế?
 
- Đúng, trong những lúc "nông nhàn" (tức là giai đoạn tổng cầu chưa thể lên được) chúng ta phải làm những việc lâu dài. Trong giai đoạn này  phải củng cố thể chế. Công việc lúc "nông nhàn” là cải thiện thể chế, xây dựng thể chế. Sau một chu trình phát triển chúng ta đã nhận ra có những vấn đề gây bức xúc trong xã hội buộc ta phải cải thiện. Sở dĩ tôi ví giai đoạn này như giai đoạn "nông nhàn”, là bởi tôi cho rằng "mùa vụ” (tức là lúc công việc sản xuất, kinh doanh sôi động) là công việc ngắn hạn. Còn những việc làm lúc "nông nhàn" là những việc chiến lược để cải thiện một cách lâu dài. Từ đó để nhận thức rằng, nếu không cải thiện thể chế thì mùa vụ sẽ bị ảnh hưởng.
 
Tôi không đánh giá thấp việc nông nhàn. "Làm nhà, lấy vợ, tậu trâu” đều ở giai đoạn nông nhàn. Cả ba việc ấy đều là việc chiến lược. Xây dựng thể chế là một việc "làm nhà”. "Lấy vợ” tức là tổ chức đoàn kết xã hội. Còn "tậu trâu” tức là chúng ta phải tái thiết lại những động lực cơ bản của nền kinh tế, của sự phát triển xã hội. Những việc ấy là việc chiến lược. Tôi không xem việc lúc "nông nhàn" là việc chơi. 
 
Luật sư Nguyễn Trần Bạt
 
Báo Đại Đoàn Kết nói với công chúng rằng không sốt ruột được
 
Phân tích của ông thật thú vị, tôi cho rằng đó là một nhận thức không phải ai cũng nhận ra vì có vẻ mọi người, như từ ông dùng ở trên, là đều thiên về hướng "kêu la” và sốt ruột mong muốn sớm thoát khỏi thời kỳ suy thoái kinh tế?
 
- Không phải ai cũng học được việc chịu trách nhiệm, cũng từng đi qua việc phải chịu trách nhiệm về những vấn đề nào đó. Vì thế đối với một số người dễ dàng có tâm lý lo sợ.
 
Kinh tế chưa có dấu hiệu gì ra khỏi khó khăn. Tôi đề nghị báo Đại Đoàn Kết nói với công chúng rằng không sốt ruột được. Khi trả lời báo chí đã nhiều lần tôi nói: Chúng ta trên thực tế đã mở cửa và trở thành một bộ phận của nền kinh tế toàn cầu. Bộ phận ấy chịu ảnh hưởng của tất cả các phản ứng, các rủi ro, các biến đổi của nền kinh tế toàn cầu và chúng ta không ra khỏi khó khăn được, nếu nền kinh tế toàn cầu không ra khỏi khó khăn.
 
Với rất nhiều người bây giờ đều muốn quy trách nhiệm cho Chính phủ. Nhưng như thế nghĩa là chúng ta khi thất bại về kinh tế thì phải đi tìm "thủ phạm” đổ lỗi để bù lại cảm giác thất bại. Có lẽ, lúc đầu Chính phủ không lường được hết chúng ta lại gắn bó với nền kinh tế thế giới đến như thế. Chúng ta tưởng rằng quyền lực ở trong nhà chúng ta, tiền bạc ở trong nhà chúng ta, đất đai ở trong nhà chúng ta nên có giá cả tùy ý thích của chúng ta. Nhưng lại quên mất rằng tất cả những cái chúng ta có ở trong nhà, giá cả của nó, lợi ích mà nó mang lại dao động cùng với cái gọi là tổng cầu ở bên ngoài.
 
Chúng ta phải thấy vinh dự được "ốm” cùng nhân loại về mặt kinh tế
 
Vâng, thưa ông, chúng ta đang ở năm thứ 6 sau WTO. Nhưng với rất nhiều người vẫn luôn có tâm lý chỉ chúng ta mới đang khó khăn, đang suy thoái và luôn tìm cách "đổ lỗi” như ông vừa nói?
- Trước đây ta lên án Việt Nam tham nhũng, bây giờ ta nhìn lại toàn bộ châu Âu tham nhũng cũng đầy rẫy. Ở Mỹ đã có những thành phố đông hàng triệu dân phá sản. Ta quên mất việc nhìn sang những nơi có quyền định giá các sản phẩm của chúng ta họ đang do dự, đang lao đao thế nào. Ta không tự đánh giá mình được. Giá của một vật được quy định bởi chợ, và chợ đang dao động cho nên giá cả các hàng hóa tuân theo sự trôi nổi của số phận thị trường toàn cầu. Ta phải khen đất nước của chúng ta là đã hội nhập đến mức phản ứng một cách nhạy cảm cùng lúc với thế giới. Cách đây 15 năm trong một buổi giao lưu có một số bộ trưởng, một số các nhà khoa học - khi ấy nền kinh tế châu Á đang khủng hoảng – GS. Đào Xuân Sâm có nói: Các đồng chí ơi, xung quanh người ta "sốt” hết cả rồi mà chúng ta không "sốt" lên được. Chỉ nguyên việc "ốm" cùng với nhân loại là một vinh dự. Chúng ta "ốm" được cùng với nhân loại về mặt kinh tế phản ánh một thực tế là ta đã gần với nhân loại về mặt kinh tế. Đấy là dấu hiệu của sự hội nhập.
 
Cách đây vài ngày vừa có hội nghị nhìn lại 5 năm gia nhập WTO, cá nhân ông đánh giá thế nào về quãng thời gian chúng ta hội nhập?
 
-  Bản thân WTO cũng rơi vào tình trạng khủng hoảng. Vòng đàm phán Doha bế tắc, tức bản thân thể chế kinh tế rộng lớn cũng đang khủng hoảng. Hay nói cách khác, các lực lượng kinh tế quốc tế đang do dự, đang dao động trước cơn bão kinh tế hay trước điểm tới hạn của một quá trình phát triển theo kiểu cũ. Nhân loại đang bế tắc về mặt lý luận phát triển kinh tế, ta cũng nằm trong tình huống như vậy. Các lực lượng khoa học, các lực lượng nghiên cứu buộc phải sử dụng giai đoạn "nông nhàn” để suy nghĩ lối thoát cho cả nền kinh tế, trong đó có chúng ta.
 
Dù có chỗ "khó nghĩ”, nhà nước vẫn buộc phải cứu thị trường bất động sản
 
 Không biết ông có theo dõi không, hiện giờ đang có một cuộc tranh luận rất sôi nổi về việc "cứu” hay không "cứu” thị trường bất động sản sau  ý kiến của ông Alan Phan. Quan điểm cá nhân ông như thế nào?
 
-  Tất cả bi kịch nằm ở chỗ, trong tất cả các lực lượng tham gia vào thổi quả bóng bất động sản trước đây dẫn đến hậu quả hiện nay có cả các lực lượng kinh tế nhà nước, cho nên Chính phủ bị coi là không "trung lập" trong câu chuyện này. Nếu Chính phủ cứu thị trường bất động sản thì gây ra những dị nghị. Tức là khu vực kinh tế nhà nước giữ một vai trò làm cho người ta nhìn Chính phủ như là không trung lập trong quá trình can thiệp đối với hiện tượng khủng hoảng này. Khía cạnh duy nhất khó nghĩ của Chính phủ là ở chỗ đấy.
 
Nhưng quan điểm của tôi là cho dù có chỗ "khó nghĩ” ấy cũng vẫn buộc phải cứu và cứu bằng cách nào mới là vấn đề. Hiện nay tôi nghĩ rằng chưa nghĩ ra cách cứu nhưng phải cứu. Nhà nước không can thiệp vào lúc này thì can thiệp vào lúc nào? 60 – 70% bế tắc của nền kinh tế Việt Nam nằm trong khu vực bất động sản. Chúng ta đã đầu tư thái quá bởi chúng ta không có cái gì khác ngoài đất. Đất tự nó đẻ ra vốn. Bán cho người ta rồi dùng tiền bán đất để đầu tư vào dự án. Còn người bán đất có thể lấy tiền làm nhà, có thể mua đồ và nó tạo ra nguồn cầu của các ngành công nghiệp khác. Tức là nhu cầu công nghiệp khác xuất hiện từ việc bán được đất. Chu kỳ tiêu tiền bán đất qua rồi và chúng ta bế tắc luôn các lĩnh vực khác. Tôi cho rằng, 50 – 60% (có thể hơn nữa) các vật thế chấp ở trong các ngân hàng là sổ đỏ. Cho nên có thể mạnh dạn gọi các ngân hàng của chúng ta là "ngân hàng sổ đỏ". Bây giờ bế tắc chính biểu hiện tập trung ở khối nợ xấu và là nguồn gốc của việc gây ra khủng hoảng bế tắc trong khu vực tài chính và ngân hàng. Sự mất cân đối trong việc kiểm soát vĩ mô của việc phân bổ các dự án phát triển là một lỗi. Để tránh lỗi ấy vô cùng khó. Bởi khi bất động sản tăng cao nó như một cơn lũ, Chính phủ có tài mấy cũng không ngăn cản được. Còn bây giờ khi nước lũ rút cũng thế, không thể ngăn cản được và gây ra lúng túng cho Chính phủ.
 
Nền kinh tế vẫn tiếp tục gồng mình vượt khó
                                                                          Ảnh: Hoàng Long
 
Chính phủ đang rất vất vả
 
Còn rộng hơn, đánh giá của ông như thế nào về những chính sách điều hành kinh tế vĩ mô trong ba tháng qua?
 
-  Trong ba tháng qua tôi cho rằng, Chính phủ đã rất cố gắng, rất vất vả. Ở đây tôi chưa vội bàn đến việc điều hành ấy đúng hay chưa, bởi sự đúng đắn của một chính sách phải có thời gian để bộc lộ, nhưng có thể nói là Chính phủ rất vất vả. Chính phủ đang phải gánh một gánh rất nặng và rất cố gắng. Cố gắng trong chuyện biện hộ đối với dư luận, cố gắng giải quyết trên thực tế, cố gắng kiểm soát cả những lực lượng "hắc ám" tồn tại trong nền kinh tế của chúng ta, cố gắng sắp đặt lại bộ máy quản lý nhà nước có nhiều chỗ, nhiều nơi bị tha hóa cùng với sự suy thoái của nền kinh tế và cùng với sự phát triển trước đây của nền kinh tế. Công việc ấy vừa là nội chính, vừa là ngoại giao, vừa là kiến thiết, vừa là công nghiệp. Tất cả những chuyện ấy rất vất vả. Tôi thấy rõ và xuất hiện sự thông cảm đến mức chi li gánh nặng mà Chính phủ đang phải gánh.
 
Kinh tế còn khó khăn trong vài năm nữa
 
Ông nói lúc nãy là khuyên dân chúng  kiên nhẫn chờ đợi để thoát ra khỏi giai đoạn suy thoái kinh tế này. Vậy dự báo của ông về những tháng còn lại của năm 2013 và những năm tới?
 
-  Kinh tế sẽ tiếp tục khủng hoảng. Không phải chỉ 2013, mà cả 2014 và rất có thể 2015 vẫn tiếp tục. Tôi biểu dương sự kiên nhẫn nếu tôi có một tí quyền nào đó (trả lời phỏng vấn báo chí cũng chính là quyền). Tất nhiên, nói đến sự kiên nhẫn không phải dễ dàng. Kiên nhẫn tức là đáng ra ăn hai con cá thì chỉ ăn một con, đáng ăn hai bát cơm thì chỉ ăn một bát. Kiên nhẫn của sự thiếu ăn, thiếu tiêu trong một giai đoạn mà tôi nghĩ không ngắn. Hai năm nữa các bát cơm mới bắt đầu đầy dần, đến đầu năm thứ ba mới bắt đầu đầy dần lên.
 
Khi chị đưa khái niệm tổng cầu ra hỏi tôi, tức là muốn diễn đạt tất cả các thực trạng kinh tế một cách lý thuyết để tránh va chạm vào những việc cụ thể mà giới truyền thông ngoài luồng hay chỉ trích. Tôi không nằm trong giới hay chỉ trích ấy. Tôi chưa bao giờ đưa cái gì lên mạng nếu không đi qua con đường báo chí chính thống.
 
Đoàn kết dân tộc là cần thiết nhất để chống tan rã
 
Nghĩa là ông có quan điểm trước những luồng thông tin chỉ trích ấy?
 
- Đất nước đang khó khăn, kinh tế suy thoái, thù trong có, giặc ngoài có, tham nhũng tràn đầy, lúc này hơn bao giờ hết cần sự thống nhất dân tộc, mà chức năng thống nhất dân tộc là của Mặt trận Tổ quốc, quan trọng hơn tất cả sự phân biệt đúng sai. Sự phân biệt đúng sai là những nghiên cứu thầm lặng để cải thiện xã hội, nhưng sự đoàn kết là cần thiết nhất để chống tan rã.
 
Trân trọng cảm ơn ông!
 
* "Toàn bộ cố gắng của nhân loại là nâng tổng cầu và toàn bộ nền kinh tế thế giới đang "giãy giụa” bởi giảm tổng cầu. Giảm tổng cầu phản ánh đầy đủ tất cả các khía cạnh khác nhau của khái niệm được gọi là khủng hoảng kinh tế”.
 
* "Làm nhà, lấy vợ, tậu trâu” đều ở giai đoạn nông nhàn. Cả ba việc ấy đều là việc chiến lược. Xây dựng thể chế là một việc "làm nhà”. "Lấy vợ” tức là tổ chức đoàn kết xã hội. Còn "tậu trâu” tức là chúng ta phải tái thiết lại những động lực cơ bản của nền kinh tế, của sự phát triển xã hội. Những việc ấy là việc chiến lược. Tôi không xem việc lúc "nông nhàn” là việc chơi. Đảng và Nhà nước ta không chơi đâu.
 
* Chỉ nguyên việc "ốm” cùng với nhân loại là một vinh dự. Chúng ta "ốm” được cùng với nhân loại về mặt kinh tế phản ánh một thực tế là chúng ta đã gần với nhân loại về mặt kinh tế. Đấy là dấu hiệu của sự hội nhập.
 
* Đất nước đang khó khăn, kinh tế suy thoái, thù trong có, giặc ngoài có, tham nhũng tràn đầy, lúc này hơn bao giờ hết cần sự thống nhất dân tộc, mà chức năng thống nhất dân tộc là của Mặt trận Tổ quốc, quan trọng hơn tất cả sự phân biệt đúng sai.

Wednesday, April 3, 2013

Thành tích tỷ đô và niềm tự hào khó nuốt

Những dự án FDI hàng tỷ USD từng là thành tích đáng tự hào của các địa phương nhưng nay nó đang trở thành cục rối khó gỡ, muốn quên đi mà không được.
Xử lý thế nào đối với những dự án FDI có vốn đầu tư đăng ký hàng tỷ USD nhưng không được triển khai theo đúng giấy phép chính là bài toán khó cho các địa phương.
Tan vỡ canh bạc casino
Tháng 3/2013, MGM tuyên bố rút lui khỏi dự án Tổ hợp nghỉ dưỡng Hồ Tràm đã gây xôn xao dư luận. Ai cũng biết, tuy MGM chỉ là “nhà quản lý dự án” chứ không phải là chủ đầu tư của dự án này nhưng vai trò của họ lại là mang tính quyết định.
Gần 5 năm sau ngày được cấp giấy phép, Tổ hợp Hồ Tràm đã không đi đúng con đường mà chủ đầu tư đã dự kiến: họ sẽ xây dựng các khách sạn trước và chờ đợi một sự “hợp thức hóa” việc cho người Việt vào casino để tiếp tục đầu tư hạng mục casino. Nhưng chính sách đã không đi nhanh như họ nghĩ, ngay cả khi khách sạn đầu tiên đã hoàn thành và khách sạn thứ hai đã được khởi động, thì chính sách về casino vẫn nằm im.
MGM rút lui thì không dễ có đối tác khác vào thay thế nếu như bối cảnh pháp lý vẫn nguyên trạng. Chủ đầu tư của Hồ Tràm, công ty ACDL, hiểu điều đó và họ đã phải lên tiếng “trấn an” các bên rằng các cổ đông vẫn rất “yên tâm với dự án”.
đầu tư nước ngoài, FDI, thu hút, tỷ USD, rút giấy phép
 
Tuy nhiên, theo báo cáo, cho đến hết năm 2012 dự án này mới chỉ giải ngân 350 triệu USD trên tổng số 4,2 tỷ USD vốn đăng ký. Nếu vấn đề casino không được tháo gỡ, liệu chừng các cổ đông có tiếp tục rót thêm vốn như cam kết?.
Có thể là không bởi vì không ai đầu tư tới 4,2 tỷ USD chỉ để xây khách sạn thuần túy!
Tin MGM rút lui có lẽ đã mang lo lắng đến cho... UBND tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu, nơi đã ký ban hành giấy phép đầu tư cho dự án này. Suy cho cùng, quyết định cho ACDL được đầu tư dự án này, cũng ít nhiều có tính mạo hiểm như một canh bạc. Trường hợp ACDL không tìm được đối tác mới thì hậu quả sẽ có rất nhiều chuyện giải quyết.
Chung số phận với dự án Hồ Tràm chính là dự án khu nghỉ dưỡng Nam Hội An, một “canh bạc” khác của tỉnh Quảng Nam. Với vốn đầu tư đăng ký 4 tỷ USD, đây là dự án FDI lớn nhất tại Quảng Nam hiện tại.
Sau khi tập đoàn Genting, đối tác trong liên doanh Genting Vina, chủ đầu tư dự án này tuyên bố rút lui, các bên ở lại rõ ràng đang lúng túng. Vì thế, Chủ tịch UBND tỉnh Quảng Nam, ông Lê Phước Thanh, chỉ có thể trả lời một cách chung chung về dự án này là “vẫn đang tiếp tục đàm phán”.
Cuộc chơi ở Nam Hội An giờ đây không nằm trong tay tỉnh Quảng Nam, cũng như đối tác còn lại trong liên doanh Genting Vina, là bởi quy mô vốn 4 tỷ USD cho dự án này quá lớn.
Nhưng cũng như Hồ Tràm, vốn không quan trọng bằng việc mở cửa với casino. Trong khi chưa tìm được đối tác thay thế, số phận của dự án rõ ràng đang bị bỏ lửng, ngay cả khi đã có khoảng 40 triệu USD được giải ngân cho công tác hạ tầng.
Khi ký quyết định thu hồi tới hơn 1.500 ha đất tại Nam Hội An, lãnh đạo Quảng Nam hẳn cũng không nghĩ rằng mọi việc lại thay đổi chóng vánh đến vậy.
Trong lòng người dân xứ Quảng, có cái gì đó thật đắng đót khi cũng trên mảnh đất Nam Hội An, trước đó, dự án Bãi Biển Rồng cũng với số vốn đăng ký lên tới 4,15 tỷ USD cũng đã rút giấy phép từ cuối năm 2010.
Xếp hàng... chậm tiến độ
Nếu như hai dự án “có casino” nói trên tương lai chưa rõ ràng, thì tại nhiều dự án có vốn đăng ký hàng tỷ USD khác, câu chuyện lại nằm ở năng lực chủ đầu tư.
Một thống kê cho hay trong vòng 5 năm qua, đã có khoảng 20 dự án có vốn đầu tư trên 1 tỷ USD được cấp phép.
Tuy nhiên, trong khi một vài dự án như trường hợp liên hiệp thép của Formosa ở Hà Tĩnh hay một số dự án bất động sản đang được triển khai, phần lớn các dự án trong danh mục này vẫn có chung tình trạng chậm tiến độ.
Trong số các dự án tỷ USD đã cấp phép trong 5 năm qua, cùng chung số phận với dự án Bãi Biển Rồng tại Quảng Nam chính là Liên hợp thép Cà Ná tại Ninh Thuận với vốn đăng ký 9,8 tỷ USD, đã bị rút giấy phép vào đầu năm 2011.
Trong khi đó, các dự án thuộc lĩnh vực bất động sản và nghỉ dưỡng như dự án Thành phố Sáng tạo Nam Phú Yên, vốn đăng ký 1,68 tỷ USD và Công viên Thế giới kỳ diệu, vốn đăng ký 1,3 tỷ USD... đều đã lần lượt bị rút giấy phép.
đầu tư nước ngoài, FDI, thu hút, tỷ USD, rút giấy phép
 
Trong lĩnh vực sản xuất, các dự án Khu liên hợp thép Guang Lian tại Quảng Ngãi với vốn đăng ký 3 tỷ USD, hay dự án sản xuất thép Kobelco tại Nghệ An, vốn 1 tỷ USD cũng chưa hẹn ngày khởi động vì những khó khăn khác nhau, đặc biệt là năng lực tài chính của chủ đầu tư.
Trong bối cảnh dòng vốn FDI toàn cầu suy giảm, không phải nhà đầu tư nào cũng có thể huy động được số tiền hàng tỷ USD, thậm chí chỉ vài trăm triệu USD để triển khai dự án như kỳ vọng. Khi đó, gánh nặng trách nhiệm bắt đầu dồn về lãnh đạo các tỉnh thành đã cấp phép.
Khai tử một dự án FDI có vốn hàng tỷ USD là điều không dễ dàng gì. Thông thường, với các dự án lớn như vậy, tuy đã được phân cấp về cấp phép, song các tỉnh vẫn thường có văn bản xin ý kiến Chính phủ và các bộ ngành.
Với tâm lý mong muốn dự án được chấp thuận, thường lãnh đạo các tỉnh thành sẽ “nói tốt” về dự án và chủ đầu tư. Đến khi tình hình thay đổi, thật khó để các tỉnh thành giải thích với Chính phủ và các bộ ngành, cũng như với chính người dân tại địa phương đó. Vì vậy, sự trì hoãn và thỏa hiệp vẫn thường xảy ra với các dự án FDI lớn nhưng chậm tiến độ.
Không phải ngẫu nhiên mà trong các đề xuất liên quan đến cải thiện công tác quản lý nhà nước về FDI gần đây, vấn đề kiểm tra năng lực của chủ đầu tư trước cấp phép cũng như theo dõi tình hình dự án sau cấp phép được đã được nhấn mạnh. Bởi vì, các địa phương đã tự hiểu không tiếp tục ăn “bánh vẽ” của nhà đầu tư như trước.

Sunday, March 31, 2013

TS.Alan Phan trả lời thẳng 15 câu hỏi cứu bất động sản

TS.Alan Phan trả lời thẳng 15 câu hỏi cứu bất động sản

(ĐVO) - Ngày 31/3, TS. Alan Phan đã trả lời 15 câu hỏi của CLB BĐS Hà Nội đặt ra với bài viết "Nên để thị trường Bất động sản rơi tự do" trước đó.

TS. Alan Phan
TS. Alan Phan
THƠ GỞI HIỆP HỘI BẤT ĐỘNG SẢN
Kính thưa Quý Vị
 
Dù chỉ mới nhận được 15 câu hỏi “chất vấn” của Quý Vị qua báo chí, tôi cũng xin phản hồi sớm vì sự mong đợi của rất nhiều đọc giả; cũng như để tỏ lòng tôn kính với “1,000 (?) đồng nghiệp” của tôi. Tôi cũng đã từng làm một nhà đầu tư dự án BDS (real estate developer) ở tận xứ Mỹ xa xôi vào cuối thập niên 1970’s. Sau 7 năm huy hoàng với lợi nhuận, tôi và các đối tác đã trắng tay trả lại mọi vốn và lời trong dự án lớn ở Arizona vào năm 1982. Do đó, tôi khá đồng cảm với trải nghiệm “của thiên trả địa” hiện tại của Quý Vị.
 
Tôi không quen bị “chất vấn”, không phải là một cậu học trò phải thi trắc nghiệm, cũng không có “quyền lợi” hay “nghĩa vụ” gì trong tình huống này, nên xin phép được trả lời các bậc đàn anh theo phong cách của mình. Vả lại, những chi tiết nhỏ nhặt của 15 câu hỏi đã được “trả lời” qua các bài viết của tôi trong vài năm qua (còn lưu lại tại www.gocnhinalan.com). Thêm vào đó, nhiều BCA (bạn của Alan) cũng đã ra công sức phản biện qua các lời bình trên trang web này và các mạng truyền thông khác. Quý Vị tự tìm tòi nhé.
 
Cốt lõi của vấn đề
 
Một khuynh hướng chung khi tìm giải pháp cho vấn nạn BĐS hiện nay của Việt Nam là đóng khung bài toán trong các công thức tài chánh. Vài doanh nghiệp BĐS nhờ tôi tư vấn tìm vốn vì họ nói không thể tiếp cận được các nguồn tài trợ. Câu trả lời của tôi là vấn đề BĐS thuộc chuyện thị trường.
 
Vốn trong dân tại Việt Nam được các nhà chuyên gia nước ngoài ước tính vào khoảng 60 tỷ USD; và vốn từ Việt kiều và các nhà đầu tư ngoại có thể lên thêm khoảng 20 tỷ (các số liệu này có thể sai nhưng chúng ta khó có thể tìm được một thống kê chính xác và chính thống về các con số này). Tuy nhiên, dù với con số nào, số tiền này cũng thừa đủ để giải quyết mọi hàng BĐS tồn kho.
 
Trên góc cạnh thị trường, khi người bán đáp ứng được nhu cầu người mua về sản phẩm và dịch vụ (gồm nhiều yếu tố, nhưng quan trọng nhất là giá cả và chất lượng) thì giao dịch xẩy ra. Do đó, câu hỏi cốt lõi là những BĐS mà quý vị đã và đang sản xuất có mức giá và chất lượng theo đúng nhu cầu của người tiêu dùng chưa? Theo tôi biết, nhu cầu về phân khúc nhà cho người thu nhập thấp rất cao; nhưng sản phẩm gần như quá ít. Trong khi đó, nguồn cung cầu tại phân khúc nhà cao cấp lại mất cân bằng và lượng tồn kho có thể phải mất 10 năm mới tiêu thụ hết.
 
Tóm lại, khủng hoảng BĐS hiện nay là một tính toán sai lầm của nhà sản xuất BĐS về giá cả và loại hàng.
 
Giá thành quá cao?
 
Nhiều người trong Quý Vị biện bạch là giá BĐS cao ngất trời vì giá đất, giá nguyên vật liệu, chi phí hành chánh và bôi trơn…quá cao. Thật tình, lý giải này chỉ chứng tỏ tính chất làm ăn thiếu hiệu quả vì không biết những tính toán căn bản về đầu tư cho dự án; cũng như cho thấy yếu kém của các quyết định bầy đàn và chụp giựt.
 
Nhưng đôi khi, tình thế ngoại vi cũng có thể làm sai trật mọi tính toán. Chẳng hạn khi tôi bắt đầu dự án Arizona nói trên vào 1979, chúng tôi đã không ngờ là lãi suất lên đến 16-18% mỗi năm khi hoàn tất, thay vì 8-9% như dự tính. Giá nhà vẫn hợp lý, nhưng phần lớn người Mỹ mua nhà bằng tín dụng, nên dự án phải phá sản. Dù không phải lỗi của chủ quan, nhưng chúng tôi hiểu rõ luật chơi của thị trường và cúi đầu chấp nhận.
 
Người mua nhà, hay ngay cả vợ con bạn bè của Quý Vị, thật sự không quan tâm đến lý do tại sao giá nhà lại cao hay thấp thế này? Vừa mua thuận bán thôi.
 
Một chút lịch sử
 
Dĩ nhiên, tất cả bàn luận trên đây dựa trên quy luật thị trường. Nhiều bạn sẽ nói là nền kinh tế chúng ta có “định hướng xã hội” nên chính phủ phải nhảy vào can thiệp hay cứu trợ khi “con cái” gặp hoạn nạn.
 
Chắc Quý Vị còn nhớ, có khi giá nhà đất lên cao cả mấy trăm phần trăm mỗi năm vào thập kỷ 1995-2006, không ai kiến nghị chánh phủ phải can thiệp để cứu người tiêu dùng bằng cách ngăn chận mọi sự tăng giá (nhiều khi phi pháp). Các nhà sản xuất BDS quên mất “định hướng xã hội” của Việt Nam và ủng hộ triệt để nguyên lý thị trường.
 
Bây giờ, vào nửa hiệp sau của trận bóng, các cầu thủ lại yêu cầu trọng tài áp dụng một luật chơi mới? Tính bất nhất này làm mọi biện luận của Quý Vị trở nên ngây ngô.
 
Hệ quả khi bong bóng BĐS nổ
 
Trước hết, khi nói về hệ quả, tôi xin mọi người ghi nhận công trạng của những nhà đầu cơ BĐS trong việc tạo ra khủng hoảng hiện nay. Tất cả những suy thoái, trì trệ và việc kém hiệu quả trong các đầu tư để công nghiệp hóa hay gia tăng sản lượng nông, hải, sản…đều có thể truy nguồn đến những bong bóng tài chánh như BDS, chứng khoán và ngân hàng. Khi dòng tiền tấp nập chảy về lãnh vực này để hưởng lợi nhuận dễ dàng và nhanh chóng, chúng ta đã hy sinh những đầu tư xã hội cần thiết và dài hạn như y tế, giáo dục, công nghệ cao, nông nghiệp…
 
Ngoài ra, về các hệ quả tương lai khi bong bóng BĐS nổ, Quý vị đã tự đặt cho mình một vị trí quá quan trọng trong nền kinh tế chung. Dĩ nhiên có thể hơn 50% các doanh nghiệp kinh doanh BĐS và vật liệu xây dựng cũng như 50% các ngân hàng nhỏ yếu sẽ chết vì nợ xấu…nhưng tôi chắc chắn là “không có Mợ thì chợ vẫn đông”. Thực ra, những doanh nghiệp, ngân hàng…này cũng đã chết lâm sàng rồi. Hiện tại, họ không đóng góp chút gì cho sản lượng quốc gia trong khi tiếm dụng một phần nguồn lực không nhỏ.
 
Về các doanh nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng, một số lớn đã ngất ngư vì không thể cạnh tranh với sản phẩm của Trung Quốc, Thái Lan…tại sân nhà hay sân người. Đổ lỗi cho tình hình BĐS chỉ là một thủ thuật.
 
Con ngáo ộp thứ hai Quý Vị đem ra hù dọa là con số vài chục ngàn trong số 53 triệu công nhân toàn quốc (với tỷ lệ thất nghiệp khoảng 2.2% theo thống kê nhà nước) sẽ bị ảnh hưởng khi bong bóng BĐS nổ tung. Nếu nền kinh tế chúng ta phát triển bền vững và bài bản, sự tạo ra việc làm cho các công nhân này chỉ là chuyện nhỏ.
 
Con ngáo ộp thứ ba của Quý vị là các người dân bỏ tiền trong các ngân hàng sẽ chịu mất mát khi vài ngân hàng đóng cửa. Theo tôi hiểu, mỗi tài khoản hiện nay được bảo hiểm đến 50 triệu VND và đang được NHNN đề xuất lên 100 triệu VND (vì lạm phát nhiều năm qua). Tỷ lệ mất mát cho những tài khoản trên 100 triệu VND tại các ngân hàng sẽ rất nhỏ; vì các nhà đa triệu phú thường không ngu để mất tiền như Quý Vị tiên đoán. 
 
Những hệ quả tích cực
 
Trong bài “Thị trường sẽ cứu chúng ta” (www.gocnhinalan.com) tôi đã ghi nhận 5 hệ quả tích cực hơn khi bong bóng BĐS nổ. Đó là số lượng vài trăm ngàn gia đình lần đầu sở hữu một căn nhà vừa túi tiền, hiện tượng tâm lý “an cư lạc nghiệp” tạo cú kích cầu tiêu dùng, gây lại niềm tin cho kinh tế, loại bỏ các thành phần phi sản xuất yếu kém, tăng thu ngân sách và thu hút đầu tư nội ngoại.
 
Trong đó, quan trọng nhất là việc tạo một tầng lớp trung lưu mới, hết sức cần thiết cho mọi sự phát triển bền vững. Nhìn qua các xã hội đã mở mang tại Âu Mỹ Nhật Úc, tầng lớp trung lưu với những tài sản thâu góp được thường là đầu tàu cho chiếc xe kinh tế. Họ tạo ra thị trường tiêu dùng lớn nhất, họ đóng thuế nhiều nhất, họ làm việc cần cù nhất, họ nợ nhiều nhất (tốt cho ngân hàng và các ông chủ), họ có niềm tin cao nhất vào đất nước …vì họ có quá nhiều thứ để mất. Một xã hội bất ổn là khi phần lớn người dân không có gì để mất.
 
Hệ quả khi bong bóng không nổ
 
Tôi thì lại lo sợ về những hệ quả trái ngược nếu quyền lực của Quý vị thành công và thuyết phục nhà nước bơm tiền cứu Quý Vị và các ngân hàng yếu kém.
 
Khi phải in tiền đủ để cứu trợ, nạn lạm phát sẽ bùng nổ lại và tỷ giá VND sẽ rơi. Nhiều người đã quay qua Mỹ quan sát về các gói cứu trợ ngân hàng tư và đề nghị NHNN dùng giải pháp này cho Việt Nam. Một ghi chú nhỏ: chánh phủ Mỹ cho các ngân hàng này vay vốn với lãi suất cực rẻ; nhưng không cứu các doanh nghiệp hay giá BĐS; và sau khi gây lại vốn sở hữu bị mất trong cuộc khủng hoảng tài chánh 2008, hầu hết các ngân hàng đã trả tiền lại cho chánh phủ.
 
Những giải pháp sáng tạo
 
Sau cùng, trong nền kinh tế trí thức toàn cầu này, sáng tạo vẫn là một điều kiện tiên quyết cho mọi doanh nghiệp.
 
Tôi không kinh doanh BĐS từ năm 1982, nên tôi không dám “múa rìu qua mắt thợ”. Nhưng tôi nhận thấy có những đại gia “thật lớn” của BĐS đã phát triển mạnh trong khủng hoàng này. Bầu Đức của HAGL chọn giải pháp “xuất ngoại” khi bán tháo BĐS tại Việt Nam và đem tiền đổ vào Lào và Myanmar. Ngài Vượng của Vincom đạt được danh tỷ phú đô la với phân khúc trung tâm thương mại cao cấp trong thời bão táp. Mr. Quang của Nam Long thì thành công với vốn ngoại và mô hình EHome cho phân khúc trung lưu. Các trường hợp phát triển như anh Thìn Đất Xanh hay anh Đực Đất Lành là những thí dụ khác.
 
Trong lãnh vực vật liệu xây dựng, sản phẩm nhà tiền chế theo dây chuyền hay các vật liệu từ công nghệ cao và xanh đã biến nhiều doanh nhân thế giới thành tỷ phú. Trí tuệ Việt chắc chắn phải có rất nhiều…Ngô Bảo Châu…trong ngành BĐS. Đây là tương lai của BĐS Việt trong mong đợi của mọi người.
 
Thay cho lời kết
 
Tôi thực sự khâm phục khả năng lobby của Hiệp Hội BĐS và các thành viên. Tạo được một bong bóng khiến giá trị BĐS lên đến 25 lần thu nhập trung bình của người dân là một thành tích đáng ghi vào kỷ lục Guinness.
 
Trong sâu thẳm, tôi vẫn mang nhiều hy vọng. Có thể một lúc nào đó, những tinh hoa của đất Việt sẽ quên đi quyền lợi cá nhân của mình và gia đình…để san sẻ lại cho các người dân kém may mắn hơn. Không phải để làm từ thiện, mà nhận trách nhiệm rộng lớn hơn với cộng đồng, và với thế đứng của Việt Nam trên thương trường quốc tế. Để doanh nhân Việt được tự hào với tư duy sáng tạo cởi mở và khả năng vượt khó bền bỉ. Để thế hệ sau còn có chút niềm tin và lực đẩy khi họ phải ra biển lớn cạnh tranh.
 
Riêng đối với những vị đã mất mát tài sản vì sai phạm đầu tư, tôi xin chia sẻ nơi đây câu thơ của tiền nhân mà tôi tự an ủi mình sau khi ký giấy trao lại cho ngân hàng toàn bộ dự án Arizona và ra đi với bàn tay trắng,” Thế Chiến Quốc, thế Xuân Thu…Gặp thời thế thế thì phải thế”. Dù sao, chỉ 3 năm sau đó, tôi lại kiếm được nhiều tiền hơn trong một mô hình kinh doanh khác.
 
Mong Quý vị mọi điều may mắn và mong tinh thần “kẻ sĩ” mãi cháy sáng trong cuộc đời Quý vị.
 
Thân ái!
 
Alan Phan
15 câu hỏi của CLB BĐS Hà Nội dành cho TS. Alan Phan
 
1. Ông cho rằng, doanh nghiệp BĐS “chết”, nhà băng “chết”, chứng khoán tụt giảm… cũng không sao, miễn là Chính phủ bảo đảm người dân sẽ không mất tiền. Vậy, xin ông cho biết giải pháp mà Chính phủ cần phải làm để bảo đảm người dân sẽ không mất tiền nếu tình trạng nêu trên xảy ra?
 
2. Hầu hết các dự án nhà ở thương mại, người dân đã đóng một phần tiền, thậm chí là rất nhiều tiền, nếu phá sản chủ đầu tư không tiếp tục xây và không thể giao nhà cho họ, cũng không có khả năng hoàn trả tiền; vậy ai sẽ là người mất tiền?
 
3. Hiện nay, các doanh nghiệp BĐS thường chỉ có từ một đến vài chục phần trăm vốn tự có, phần còn lại là vay ngân hàng (mà ai cũng biết ngân hàng là DN kinh doanh từ tiền gửi tiết kiệm của nhân dân). Vậy nếu các doanh nghiệp BĐS phá sản, kéo theo hệ thống ngân hàng có thể sẽ sụp đổ; lúc này thực chất, ai sẽ là người mất tiền?
 
4. Ông đã nhận định rằng, để thị trường rơi tự do, giá nhà có thể giảm thêm 30-50% nữa. Vậy theo ông, khi giảm đến mức đó mới là “giá trị thực” (bằng mức đầu tư của doanh nghiệp) hay đã thấp hơn? Tóm lại là, theo ông, nếu giá BĐS giảm tới 50%  thì đã bằng giá thành đầu tư dự án hay còn xuống sâu hơn nữa mới bằng giá thành xây dựng?  
 
5. Theo đánh giá của ông, giá BĐS tại Việt Nam được hình thành từ những cơ sở nào? Và ông căn cứ vào cơ cấu giá như thế nào để đưa ra nhận định đó?
 
6. Giá nhà ở Việt Nam hiện nay có thể chưa phù hợp với thu nhập của phần lớn người dân Việt Nam; song như chúng ta đã biết, để tạo nên một sản phẩm BĐS, hiện nay chúng ta phải nhập khẩu rất nhiều các nguyên vật liệu, trang thiết bị cao cấp (Việt Nam chưa sản xuất được hoặc có sản xuất cũng chưa đạt yêu cầu của người tiêu dùng), điều này góp phần rất lớn làm đội giá BĐS lên cao. Vậy có phù hợp không khi chúng ta lấy mặt bằng thu nhập của người dân để đòi hỏi giá nhà phải tương xứng?
 
7. Căn cứ vào cơ sở khoa học nào để ông đưa ra nhận định: Không cần giải cứu, địa ốc sẽ đi lên sau 4-5 năm? 
 
8. Như ông cũng biết, đa phần các doanh nghiệp BĐS tại Việt Nam hiện nay là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, họ là động lực phát triển của nền kinh tế và tạo công ăn việc làm. Nếu bây giờ thúc đẩy cho họ phá sản hết thì bao giờ chúng ta mới khôi phục được hạ tầng kinh tế này?
 
9. Ông có biết, hiện nay tại Việt Nam có bao nhiêu ngành, lĩnh vực sản xuất và bao nhiêu người tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp vào hoạt động của thị trường BĐS (công nghiệp phụ trợ, công nghiệp vật liệu, xây dựng, bán hàng, quản lý…) hay không? Nếu để thị trường BĐS “rơi tự do”, phá sản dây chuyền, điều gì sẽ xảy ra và cuộc sống của những người hoạt động trong lĩnh vực này cũng như gia đình họ sẽ ra sao?
 
10. Ông có thiện chí giới thiệu hoặc tham gia cùng những nhà đầu tư có tiềm lực tài chính mạnh ở Mỹ hay Trung Quốc đến Việt Nam đầu tư những dự án nhà ở giá rẻ không? Người dân sẽ đánh giá rất cao tư cách và trách nhiệm của ông nếu ông làm được việc này.
 
11. Hạ tầng, cảnh quan đô thị của Việt Nam (ít nhất là 2 thành phố lớn là Hà Nội và TPHCM) hiện nay như thế nào nếu đem so sánh với các đô thị khác trong khu vực và trên thế giới? Theo ông, nếu không phát triển thị trường BĐS thì chúng ta làm thế nào để cải tạo được diện mạo đô thị, làm sao tiến kịp thế giới?
 
12. Xin ông cho biết, bài học “Hãy chết đi” mà Tổng thống Ford đã áp dụng cho New York (Mỹ) có được quốc gia nào áp dụng thành công (để khắc phục và vượt qua khủng hoảng thành công, vừa đảm bảo quyền lợi toàn dân, vừa thúc đẩy xã hội phát triển) sau đó nữa không? Lý do gì mà người ta lại không đi theo con đường đó?
 
13. Ông cho rằng, thị trường BĐS Việt Nam hiện chưa thu hút nhiều nhà đầu tư ngoại và trong thời gian tới họ sẽ không đầu tư dài hạn, mua đất giải phóng mặt bằng sau đó triển khai dự án... Đây là nhận định cá nhân hay dựa vào khảo sát nào, thưa ông?
 
14. Được biết đến như một doanh nhân với 43 năm kinh nghiệm tại thị trường Mỹ và Trung Quốc, nhưng ông đã có nhiều nghiên cứu với thị trường Việt Nam hay chưa? Và kinh nghiệm thực tế của ông với thị trường BĐS Việt Nam là gì?
 
15. Hiện nay, cộng đồng doanh nghiệp là các hội viên trong CLB BĐS Hà Nội rất mong muốn được tổ chức một hội thảo về những vấn đề ông đã nêu ra cho thị trường BĐS Việt Nam. Ông có sẵn sàng về Việt Nam để tham dự hội thảo này với vai trò diễn giả, trả lời các câu hỏi của các doanh nghiệp và công chúng trong nước hay không?
 
Trên đây là những câu hỏi bước đầu mà các thành viên của CLB BĐS Hà Nội đặt ra với ông. Rất mong ông sớm dành thời gian phúc đáp để chúng ta có thể tiếp tục trao đổi, làm sáng tỏ vấn đề.

Wednesday, March 27, 2013

Không thể 'ngồi chờ sung rụng'

Không thể 'ngồi chờ sung rụng'

Lúc đó, lãnh đạo cứ nghĩ mình có chính sách tốt, luật pháp tốt, rồi nhân công rẻ, tức khắc các nhà đầu tư sẽ đến, tội gì phải đi cho mất công, tốn tiền.
LTS: Tuanvietnam tiếp tục phần 2 cuộc trao đổi với ông Lương Văn Lý của DNL Partners về vấn đề TP HCM sau mấy chục năm đổi mới, về thu hút đầu tư nước ngoài. >> Kỳ 1: Sài Gòn 'mất đà', 'hụt hơi'?
Nhắc cho người ta nhớ

Sau này, khi sang Sở Kế hoạch - Đầu tư, ông đã kịp làm những gì, nhất là đối với thu hút đầu tư nước ngoài?
Thay đổi cơ bản nhất là chúng tôi đã tạo được một nhận thức mới của lãnh đạo thành phố là phải đi xúc tiến đầu tư, chứ không thể ngồi chờ sung rụng được.
Lúc đó Việt Nam mình có một niềm tự hào là cô gái đẹp, con rồng nhỏ, ngôi sao đang lên... Thứ nữa, lúc đó, lãnh đạo cứ nghĩ mình có chính sách tốt, luật pháp tốt, rồi nhân công rẻ, tức khắc các nhà đầu tư sẽ đến, tội gì phải đi cho mất công, tốn tiền.
Tôi thuyết phục các vị lãnh đạo rằng thời buổi ngày nay, anh không đi, anh không nhắc cho người ta nhớ, người ta quên anh thôi. Hồi đó, tôi phải kiên trì mất một năm mới thuyết phục được lãnh đạo thành phố. Sau đó thì năm nào cũng đi, không chỉ một đoàn mà có khi ba đoàn, đến các thị trường lớn, như Nhật Bản, châu Âu, hay Bắc Mỹ.
Người Việt Nam vẫn có một thứ thâm căn cố đế là rất ngại tiếp xúc, đặc biệt với người nước ngoài. Mà không phải là chuyện chính trị đâu nhé. Rồi từ đó lại đẻ ra một cái tệ khác là thấy nguời Việt Nam nào ung dung tự tại trong tiếp xúc với người nước ngoài thì lại qui kết nọ kia. Chẳng hạn, ông Nguyễn Thiện Nhân đã từng bị phê bình không chính thức khi tiếp khách lại nói thẳng bằng tiếng Anh.
Nhưng đó mới chỉ là bước đầu, còn vấn đề chính là chuyển thông điệp gì cho nhà đầu tư thì chưa rõ ràng. Bởi đi vào cụ thể, lĩnh vực ưu đãi là dịch vụ và công nghệ cao, thì mình lại bị tắc khi không có định nghĩa rõ ràng, và tắc luôn đến tận bây giờ.
Ví dụ như Bosch cách đây vài năm vẫn sản xuất linh kiện ô tô và các chip điện tử xin vào khu công nghệ cao, Việt Nam mình thì bảo đó là cơ khí ô tô chứ không phải công nghệ cao. Rốt cuộc là từ chối Bosch. Cái chính là mình không định nghĩa rõ ràng về công nghệ cao.
Hay mình muốn ưu tiên thu hút tài chính cao cấp, thế nhưng đó là là lĩnh vực dịch vụ, và ở Việt Nam bị đánh thuế cao nhất, vì đó là phi sản xuất.
Hồi ông còn làm ở Sở KH-ĐT, nhà đầu tư hay hỏi ông câu hỏi gì nhất?
Chủ yếu về thủ tục và những vấn đề ưu tiên ưu đãi.
Đến giờ TP HCM đã xác định ưu tiên công nghệ cao?
Chưa. Thậm chí đầu tư công nghệ cao rất trắc trở, mặc dù gần đây khá hơn. Công cụ các ông muốn là những công cụ mũi nhọn mà không bỏ tiền thì gọi gì là ưu tiên. Tư nhân không thể làm được vì nó quá rủi ro.
Với cương vị mới, khách hàng của ông vẫn đặt lại câu hỏi cũ?
Những than vãn kêu ca vẫn tiếp tục từ hơn 10 năm về trước và có dấu hiệu nhiều hơn. Bây giờ có sức ì lớn, bởi hễ có gì đó hơi khác một tí là họ (Sở KH-ĐT) hỏi bộ, chứ hoàn toàn không để rủi ro nào dành cho mình cả.
Nhưng rồi các bộ không thèm trả lời, họ nhận công văn rồi bỏ đấy.
Nghe nói ông Lê Mạnh Hà, khi lên làm Phó Chủ tịch TP, bực mình về chuyện đó lắm. Ông ấy bảo mấy chuyện đó cứ để ông giải quyết, thay vì phải gửi ra cho các bộ. Nếu chuẩn ra thì đó là việc của Sở KH-ĐT, chứ chả phải phiền đến ông Hà.
Sài Gòn trong đêm
'Ông lớn' không dại gì đổ tiền vào Theo ông đánh giá, TP HCM trong con mắt các nhà đầu tư lớn như Mỹ ra sao?
Theo tôi đầu tư lớn và nghiêm túc từ Mỹ vào Việt Nam chưa có mấy. Cho tới nay, các ông lớn chưa vào. Họ mới thử bỏ ít vốn qua các công ty con, hoặc công ty trung gian, xem tình hình thế nào. Trừ Intel là một câu chuyện rất đặc biệt.
Lý do?
Năm ngoái, tôi có nói chuyện với Đại sứ Mỹ về vấn đề này. Bây giờ tôi có thể trả lời anh như sau:
Thứ nhất, hiện nay thị trường Việt Nam còn quá nhỏ, so với các thị trường khác. Ví dụ điển hình nhất là McDonald, hay Cosco.
Thời tôi còn ở Sở Ngoại vụ, tức là ít nhất cách đây hơn 10 năm, McDonald có cử người vào thăm dò nhiều lần. Còn Cosco thì phía Việt Nam đã chủ động tiếp xúc rất nhiều. Nhưng cho đến nay, thậm chí mua hàng của Việt Nam, hiện nay họ cũng mua nhỏ giọt. Tóm lại các ông lớn thấy thị trường này chưa hấp dẫn.
Thứ hai, thị trường này còn quá bấp bênh, nên các ông lớn không dại gì đổ tiền vào.
Một trong những điều mà các nhà đầu tư hay phàn nàn là sự thay đổi chính sách quá nhanh, hay nói cách khác, môi trường chính sách ở Việt Nam thiếu sự ổn định và nhất quán.
Xin ông nói rõ hơn.
Cách điều hành kinh tế không tạo cho giới đầu tư - kinh doanh cảm thấy an toàn. Chính sách kinh tế vĩ mô họ thấy bấp bênh quá, như những xử lý gần đây với các ngân hàng, hay chính sách tài khóa, lạm phát... Nói chung, Việt Nam hay làm theo kiểu làm tới đâu hay tới đó, chứ tầm nhìn lâu dài, khả năng dự báo rất yếu.
Thứ hai là tham nhũng. Điều quan trọng là họ thấy tình hình ngày càng tệ. Họ nghi ngờ ý chí chống tham nhũng chưa đủ mạnh. Họ nói rằng cứ thấy luật mới nào ra là đầy rẫy những lỗ hổng, khe hở. Và họ đặt câu hỏi: Tại sao những khe hở, lỗ hổng đó lại được giữ nguyên trong luật?
Đó cũng là câu hỏi của tôi.
Họ chỉ tập trung vào hai điểm: Mình điều hành mà cứ để những chuyện nọ chuyện kia xảy ra thì chống làm sao được tham nhũng; thứ hai là năng lực quản lý kinh tế vĩ mô..., Người Mỹ nghe những chuyện đó thấy kinh lắm.
Xin quay trở lại câu chuyện của Intel. Intel đặc biệt ở chỗ nào?
Thứ nhất, bản thân Intel không muốn tiếp tục phát triển ở những nơi đã có nhà máy. Chẳng hạn, Intel đang định đóng cửa nhà máy ở Penang (Malaysia), bởi họ không hài lòng về chất lượng nhân công. Thứ hai, họ muốn da dạng hóa đầu tư, không chỉ tập trung ở Trung Quốc nữa.
Thứ ba, về phía Việt Nam, TP HCM có khu công nghệ cao, với người phụ trách lúc đó là ông Năm Nghị (Phạm Chánh Trực). Vai trò cá nhân, trong đó có cả nhân cách và phần nào đó là thế chính trị, ở đây rất quan trọng. Ông lôi được Intel vào đúng lúc họ cần tìm địa điểm đầu tư mới.
Nhưng bản thân ông Năm Nghị một mình phải đấu tranh rất dữ dội. Bởi Intel đòi những cái đảm bảo mà luật pháp không cho phép.
Chẳng hạn, vào thời điểm 2000-2001, mà nhà đầu tư vào đòi hỏi rằng "nếu tôi bỏ 1 tỷ USD, anh phải bỏ 100- 200 triệu USD", để chứng tỏ Việt Nam thiện chí làm. Các ông nghe nhảy dựng lên liền, báo chí không làm ầm ĩ lên cũng vì đó là ông Năm Nghị, chứ nếu họ làm ầm lên câu chuyện chủ quyền thì chắc hỏng.
Đó là chưa nói tới những chuyện khác, như ưu đãi thuế má... Tức là ông đáp ứng được cho Intel những nhượng bộ mà chưa bao giờ nhà đầu tư nước ngoài nào khác đạt được ở Việt Nam.
Tất nhiên, khi Intel vào Việt Nam rồi, họ lại gặp phải những khó khăn khác, như nguồn nhân lực. Nhưng đó là chuyện về sau.
Huỳnh Phan

Tuesday, March 26, 2013

Sài Gòn 'mất đà', 'hụt hơi'?

Những bức xúc của thế hệ ban đầu thúc đẩy đổi mới, thì tới thế hệ sau không còn mãnh liệt như trước nữa. Người ta cảm thấy có thể đi chậm lại, có thể bớt tính đột phá, mà tình hình vẫn ổn.
LTS: Tuanvietnam xin tiếp tục cuộc trao đổi về TP HCM, sau mấy chục năm đổi mới, về thu hút đầu tư nước ngoài, lần này là ông Lương Văn Lý của DNL Partners, người đã từng là Phó Giám đốc Sở Ngoại vụ (1994-2001), Phó Giám đốc Sở Kế Hoạch - Đầu tư (2001-2007).
Sợ mất quyền kiểm soát?

Xin hỏi ông lý do vì sao những năm đầu đổi mới đầu tư nước ngoài dồn vào TP HCM, nhưng càng về sau thành phố này không giữ được vị trí trung tâm trong thu hút đầu tư nữa?
Có 3 nguyên nhân. Tôi dựa vào các trao đổi với các nhà đầu tư nước ngoài rồi rút ra.
Thứ nhất là tâm lý, các nhà đầu tư vào mình đa số từ các nước tư bản, nhắc đến Việt Nam thì nghĩ đến miền Nam, và TP HCM là nơi phồn hoa nhất và năng động nhất.
Thứ hai là TP HCM là nơi có điều kiện làm ăn thuận lợi nhất, nhất là đầu những năm '90, đầu tư nước ngoài rộ lên. Đây là nơi có cơ sở hạ tầng kỹ thuật tốt nhất và nguồn nhân lực dồi dào từ nhiều nơi. Nơi đây có tư duy phù hợp với kinh tế thị trường và đào tạo tốt hơn.
Thứ ba là dù sao đổi mới bắt đầu từ TP HCM, và trong quá trình đổi mới nơi này mang tính tiên phong.
Tức là theo ý ông, đổi mới gắn với tầm nhìn và ý chí của lãnh đạo?
Cái nếp suy nghĩ đã có một đà năng động đã tiếp tục vận hành và lôi cuốn những người có tư duy do dự nhất. Những con người đã khởi xướng đổi mới từng làm việc ở đây thì chắc hẳn nơi này có một nguồn đào tạo và hình thành lãnh đạo theo một cách nào đấy.
Thực sự ra phải nói cho đến Đại hội 7 (1991), không khí đổi mới rất nô nức và mọi người đến TP HCM lần đầu tiên cảm thấy đổi mới hiện diện trong từng ngày và từng bước đi.
Nhưng chỉ mấy năm sau thôi, người ta cảm nhận có gì đó cản bước họ, quá trình đổi mới chậm lại, và thể hiện rõ đến khoảng năm 2000.
Ông lý giải chuyện đó thế nào? Họ bắt đầu cảm thấy dè dặt vì đổi mới quá nhanh?
Trước khi trả lời câu hỏi của anh, tôi muốn đề cập đến chuyện này trước. Khi một cái gì đó mới bắt đầu thì nó mới háo hức và sôi động, và, lẽ ra, công cuộc đổi mới sau giai đoạn hồ hởi đó thì phải đi vào chiều sâu, phải được tiếp tục bằng các cải cách theo chiều sâu.
Khi phát sinh cải cách chiều sâu, nhà đầu tư nước ngoài mong đợi TP HCM sẽ tiếp tục tiên phong trong cải cách, nhưng họ không thấy. TP HCM ngày càng nhiều nhà đầu tư vào, nhưng ngày càng nhiều người thất vọng.
Theo ông, cải cách chiều sâu bao gồm những gì?
Một vấn đề rất hiển nhiên, ai cũng nhìn thấy, là thủ tục hành chính, thậm chí còn phải tiến đến mức cải tổ bộ máy nữa. Nhưng nhìn lại, người ta thấy thủ tục vẫn tiếp tục nặng nề, so với một số tỉnh lân cận, như Đồng Nai, Bình Dương, hay Vũng Tầu, thì chậm hơn hẳn. Ở những tỉnh đó, người ta thấy rõ ràng bộ máy chính quyền thân thiện hơn.
Nói tóm lại, đó là một sự mất đà, thậm chí hụt hơi, trong quá trình đổi mới.
Bây giờ quay lại câu hỏi của anh, thực sự tôi có cảm giác ở đây cũng dính đến con người. Tôi phục vụ đến ít ra 3 thế hệ lãnh đạo, và nhận thấy rằng dường như những bức xúc của thế hệ ban đầu như cụ Nguyễn Văn Linh, cụ Mai Chí Thọ, hay cụ Võ Văn Kiệt, khiến họ phải quyết định đổi mới, thì tới thế hệ sau không còn mãnh liệt như trước nữa. Tức là người ta cảm thấy có thể đi chậm lại, có thể bớt tính đột phá, mà tình hình vẫn ổn.
Thứ hai là những năm cuối '90 bước đầu sang 2000, cùng với những cố gắng ra đời và hoàn chỉnh hệ thống pháp luật, thì sự kiểm soát của Trung ương chặt chẽ hơn, nhiều luật hơn và phép tắc hơn và định hình khung rõ ràng hơn. Trong khi đó, đổi mới thì đòi hỏi phải thay đổi, thậm chí phải "leo rào" nhiều hơn, thành ra có nhiều sự ngại ngùng.
Tôi có cảm giác đến một lúc nào đó người ta sẽ sợ mất quyền kiểm soát.
Thành phố sợ, hay Trung ương sợ?
Tôi chỉ nói ở cấp độ thành phố thôi. Cái này cũng phần nào đó lý giải được rằng những người lãnh đạo không hiểu kinh tế thị trường.
Khi Đại hội 6 (1986) nói về kinh tế thị trường theo định hướng XHCN thì thế giới rất mù mờ về Việt Nam. Đổi mới mà cho kinh tế thị trường phát triển và nới lỏng sự kiểm soát của nhà nước thì người ta rất ngại.
Chúng ta phải rạch ròi hai khái niệm: Nếu năm 1986 mà không đổi mới thì chết, và chúng ta đã đổi mới, nhưng khi sau này thấy đổi mới quá sẽ mất sự kiểm soát thì người ta ngần ngại.
Nói tóm lại, nỗi lo sợ lớn nhất là mất quyền kiểm soát đã cản trở mọi thứ. Tôi xin kể một ví dụ khá điển hình hồi đó.
Đầu những năm '90 có sự kiện rất đáng chú ý là cả Coca Cola và Pepsi Cola vào Việt Nam. Trong khi Coca Cola đi những bước thận trọng, qua người Việt, thì Pepsi Cola làm rất mạnh. Họ phát động một chương trình quảng bá rất mạnh với hàng loạt poster nhấn mạnh khái niệm "Thế hệ mới". Điều đó khiến cho hàng loạt ông giật mình.
Thậm chí, có vị trước đây là người ủng hộ đổi mới của Nguyễn Văn Linh rất mạnh, tức là có tư duy đổi mới, lại cảm thấy lo ngại rằng dường như Pepsi Cola đang phát động điều gì đó với giới trẻ, ngoài mục đích kinh doanh thuần túy. Và thế là trong Pepsi Cola mới xuất hiện ông Phạm Phú Ngọc Trai.
À, tức là mình phải đưa người vào để quản lý?
Đúng rồi. Tự dưng lúc đó người ta cảm thấy sợ vì những chuyện không vào đâu, và đó là một trong những yếu tố làm khựng lại đà đổi mới.
Ông Lương Văn Lý của DNL Partners
Hạt sạn lớn Nhiều người nói mình không hiểu Mỹ. Ông nghĩ sao?
Đúng. Mình có những người bắt đầu tìm hiểu Mỹ như ông Nguyễn Cơ Thạch, hoặc ông Lê Mai, thì người rút sớm, người mất sớm, thế nên mình không hiểu Mỹ và lớn hơn là không hiểu nền kinh tế thị trường nó vận hành thế nào. Như ví dụ mà tôi vừa nêu, chuyện công ty quảng cáo để hướng tới khách hàng trẻ là chuyện thường ngày ở huyện.
Khi thực hiện đổi mới thì bắt buộc phải nói về kinh tế trước. Vậy khi nói về kinh tế thị trường mà người ta không hề quan tâm đến nó. Mãi về sau này, tự nó vận hành thì các vị phải chạy theo. Theo mình đó là sự thiếu sót, tầm nhìn của người đổi mới không đủ để bao quát, mới chăm chú chuyện chính trị.
Cụ Nguyễn Cơ Thạch đọc sách của Samuelson về kinh tế tư bản nên đi đâu cũng nói câu chuyện lựa chọn giữa sản xuất bơ và súng. Ông là nhân vật hiếm hoi chịu khó tìm hiểu về Mỹ, về kinh tế thị trường, và bắt đầu quan tâm tìm hiểu về Mỹ, đặc biệt là chính trị nội bộ của Mỹ.
Trong khi đó, khi Việt Nam bắt đầu quan tâm đến Mỹ, là mình quan tâm làm sao Mỹ bỏ cấm vận, nên thông qua chính trị, thông qua các đoàn thể quần chúng, qua cả các chính phủ có quan hệ với mình ở phương Tây, để "ép" Mỹ bỏ cấm vận. Người ta xem việc bỏ cấm vận làm một thành quả về mặt chính trị, chứ hệ quả kinh tế thế nào thì người ta ít nghĩ.
À, tôi biết, lúc đó vì ông ở trong trung tâm của nỗ lực bình thường hóa quan hệ. Giống như vừa rồi, mình đặt vấn đề với Mỹ: rút lệnh cấm vận bán vũ khí sát thương, có người lại cho rằng quan hệ bình thường thì phải dỡ bỏ cấm vận, chứ chưa chắc Việt Nam có nhu cầu mua?
(Cười) Bối cảnh có khác. Thỉnh thoảng muốn làm hoà hay tăng thêm sức ép thì tung chiêu kinh tế thương mại, phục vụ cho mục tiêu chính trị, chứ không phục mục đích phát triển quan hệ kinh tế. Điều đó vẫn là một hạt sạn lớn làm cho cỗ máy quan hệ giữa Việt Nam với thế giới bị hóc.
Quay lại cái khủng hoảng tài chính Châu Á (1997-1998) tác động gì đến TP. Hồ Chí Minh?
(Lúc đó phó Giám đốc Sở Ngoại vụ) Tôi đã phát biểu rất nhiều, chủ yếu trong các cuộc họp nội bộ, rằng khủng hoảng '97-'98 không có tác động tới Việt Nam, vì thực tế là Việt Nam thậm chí chưa đưa một ngón chân vào kinh tế khu vực.
Thực sự, nếu có ảnh hưởng cũng chỉ là với khu vực đầu tư nước ngoài. Chẳng hạn như Hàn Quốc.
Nhưng khủng hoảng chưa đụng chạm đến tiềm lực cơ bản của thành phố. Trái lại có những thuận lợi từ Thái Lan chao đảo, thì lẽ ra phải có những động thái để chiếm lĩnh lấy những khoảng trống đó.
Chẳng hạn, tôi luôn nói là phải nhanh chóng cải tổ đổi mới ở những lĩnh vực then chốt như du lịch, đơn giản hoá thủ tục nhập cảnh, và đầu tư vào cơ sở hạ tầng. Tiền không có nhiều, nhưng phải tập trung để đón đầu.
Có điều, họ tiếp thu, nhưng không thực hiện gì cả. Và thế là đến năm 2000, sự mất đà đã thấy rõ, nhất là với thu hút đầu tư nước ngoài.
Huỳnh Phan

Monday, February 18, 2013

Doanh nghiệp vừa và nhỏ đang bị suy kiệt

Ngoài việc nhìn thẳng vào những nguyên nhân gốc rễ của các khó khăn hiện nay thì những điểm sáng của nền kinh tế cũng cần được diễn giải đúng đắn hơn để mình không ngộ nhận.

Thứ nhất, gốc rễ cơ bản kinh tế Việt Nam trong thời gian rất dài là thực hiện chính sách phát triển, tăng trưởng đầu tư theo chiều rộng. Cụ thể, lấy khu vực kém hiệu quả đó là khu vực doanh nghiệp nhà nước (DNNN) làm xương sống cho nền kinh tế. Khi chọn khu vực này phát triển chủ yếu dựa vào đầu tư nên phải dùng rất nhiều nguồn lực. Hậu quả là đầu tư lớn nhưng tăng trưởng không tương ứng. Hay nói cách khác, để tốc độ tăng trưởng đạt được một chỉ tiêu nào đó thì tỉ lệ đầu tư phải cao hơn. Bằng chứng, đầu năm 2000 mình đầu tư khoảng 32%-33% GDP nhưng đến cuối năm 2000 và đầu 2010 trở đi tỉ lệ đầu tư đã lên đến 42%-43% GDP. Trong khi đó tốc độ tăng trưởng lại giảm đi. Điều này cho thấy để có thể đạt được cùng một lúc tăng trưởng thì mức độ đầu tư phải cao. Đầu tư cao thì tín dụng cung tiền tăng theo tương ứng và điều này tác động tới lạm phát.
Thứ hai, chất lượng điều hành chính sách ở Việt Nam về mặt định hướng thì đúng đắn nhưng khi triển khai thì bị bóp méo và chệch hướng. Ví dụ các chính sách bình ổn kinh tế vĩ mô có từ năm 2008. Sau đó giao xuống cho đơn vị triển khai và từ đó đến nay gần như chưa làm được gì. Điều này thể hiện dù định hướng đúng nhưng khi đi qua bộ máy triển khai kém hiệu quả, bị chi phối bởi nhiều nhóm lợi ích khác nhau thì tự nhiên chính sách này bị bóp méo theo hướng khác.
Phần lớn DN vừa và nhỏ khó tiếp cận với vốn vay ưu đãi. Ảnh: CT
Thứ ba, nguồn gốc của sự thịnh vượng nằm ở DN. Thế nhưng DN hai khu vực lớn nhất là DNNN cụ thể là các tập đoàn công ty và FDI lại không liên quan gì nhiều đến nền tảng kinh tế trong nước. Khu vực Nhà nước lớn mạnh phụ thuộc vào mấy thứ: các nguồn khai thác tài nguyên như Petro Việt Nam, hay Than Khoáng sản; hai là phụ thuộc vào vị thế độc quyền như Telecom, Đường sắt Việt Nam, Vietnam Air... Vị thế này họ không tự có mà do Nhà nước ban phát; ba là do nguồn trợ cấp rất hào phóng liên quan đến đất đai, tín dụng, đầu tư và thể chế. Khu vực DN đầu tư nước ngoài có tiếng là năng động theo nghĩa họ đóng góp 60% trên tổng kim ngạch xuất khẩu Việt Nam. Nhưng thực tế họ không dính dáng gì nhiều tới DN trong nước. Cụ thể các nhà cung ứng đa số không phải DN trong nước. Thành ra DN trong nước chỉ cung cấp những thứ đơn giản như các sản phẩm có giá trị gia tăng thấp, sản phẩm gia công truyền thống. Trong khi thị trường trong nước cung cấp cho họ giá đất rẻ, công nhân rẻ và thậm chí chi phí môi trường rất thấp. Nhà đầu tư nước ngoài lợi dụng cái này xuất khẩu. Còn lại tính kết nối với DN trong nước thấp. Không những thế nghĩa vụ đóng thuế của một số DN khu vực này được giảm đi nhiều nhờ hoạt động chuyển giá hay những thiếu sót và khe hở trong quản lý của nước ta.
Hai đối tượng khu vực DN lớn hoặc được thừa hưởng vị thế độc quyền từ tài nguyên, hoặc dựa vào nguồn lực bên ngoài xuất khẩu - nhập khẩu chứ không kết nối hữu cơ và hiệu ứng lan tỏa trong nền kinh tế nội địa. Nên dù chúng ta có thành tích nhất định về xuất khẩu nhưng nền tảng trong nước vẫn không phát triển. Trong khi đó phần lớn DN trong nước là DN vừa và nhỏ và chủ yếu là DN nhỏ. Và nhóm này đáng lẽ là tiên phong thì thui chột ý chí, không có động cơ để đầu tư phát triển, nhất là họ đang bị suy kiệt bởi lãi suất cao, bất ổn kinh tế vĩ mô và bất ổn trong điều hành chính sách.
TS VŨ THÀNH TỰ ANH,  Giám đốc nghiên cứu Chương trình Giảng dạy kinh tế Fulbright tại TP.HCM - NGA SƠN ghi