Showing posts with label sai gon. Show all posts
Showing posts with label sai gon. Show all posts

Tuesday, March 26, 2013

Sài Gòn 'mất đà', 'hụt hơi'?

Những bức xúc của thế hệ ban đầu thúc đẩy đổi mới, thì tới thế hệ sau không còn mãnh liệt như trước nữa. Người ta cảm thấy có thể đi chậm lại, có thể bớt tính đột phá, mà tình hình vẫn ổn.
LTS: Tuanvietnam xin tiếp tục cuộc trao đổi về TP HCM, sau mấy chục năm đổi mới, về thu hút đầu tư nước ngoài, lần này là ông Lương Văn Lý của DNL Partners, người đã từng là Phó Giám đốc Sở Ngoại vụ (1994-2001), Phó Giám đốc Sở Kế Hoạch - Đầu tư (2001-2007).
Sợ mất quyền kiểm soát?

Xin hỏi ông lý do vì sao những năm đầu đổi mới đầu tư nước ngoài dồn vào TP HCM, nhưng càng về sau thành phố này không giữ được vị trí trung tâm trong thu hút đầu tư nữa?
Có 3 nguyên nhân. Tôi dựa vào các trao đổi với các nhà đầu tư nước ngoài rồi rút ra.
Thứ nhất là tâm lý, các nhà đầu tư vào mình đa số từ các nước tư bản, nhắc đến Việt Nam thì nghĩ đến miền Nam, và TP HCM là nơi phồn hoa nhất và năng động nhất.
Thứ hai là TP HCM là nơi có điều kiện làm ăn thuận lợi nhất, nhất là đầu những năm '90, đầu tư nước ngoài rộ lên. Đây là nơi có cơ sở hạ tầng kỹ thuật tốt nhất và nguồn nhân lực dồi dào từ nhiều nơi. Nơi đây có tư duy phù hợp với kinh tế thị trường và đào tạo tốt hơn.
Thứ ba là dù sao đổi mới bắt đầu từ TP HCM, và trong quá trình đổi mới nơi này mang tính tiên phong.
Tức là theo ý ông, đổi mới gắn với tầm nhìn và ý chí của lãnh đạo?
Cái nếp suy nghĩ đã có một đà năng động đã tiếp tục vận hành và lôi cuốn những người có tư duy do dự nhất. Những con người đã khởi xướng đổi mới từng làm việc ở đây thì chắc hẳn nơi này có một nguồn đào tạo và hình thành lãnh đạo theo một cách nào đấy.
Thực sự ra phải nói cho đến Đại hội 7 (1991), không khí đổi mới rất nô nức và mọi người đến TP HCM lần đầu tiên cảm thấy đổi mới hiện diện trong từng ngày và từng bước đi.
Nhưng chỉ mấy năm sau thôi, người ta cảm nhận có gì đó cản bước họ, quá trình đổi mới chậm lại, và thể hiện rõ đến khoảng năm 2000.
Ông lý giải chuyện đó thế nào? Họ bắt đầu cảm thấy dè dặt vì đổi mới quá nhanh?
Trước khi trả lời câu hỏi của anh, tôi muốn đề cập đến chuyện này trước. Khi một cái gì đó mới bắt đầu thì nó mới háo hức và sôi động, và, lẽ ra, công cuộc đổi mới sau giai đoạn hồ hởi đó thì phải đi vào chiều sâu, phải được tiếp tục bằng các cải cách theo chiều sâu.
Khi phát sinh cải cách chiều sâu, nhà đầu tư nước ngoài mong đợi TP HCM sẽ tiếp tục tiên phong trong cải cách, nhưng họ không thấy. TP HCM ngày càng nhiều nhà đầu tư vào, nhưng ngày càng nhiều người thất vọng.
Theo ông, cải cách chiều sâu bao gồm những gì?
Một vấn đề rất hiển nhiên, ai cũng nhìn thấy, là thủ tục hành chính, thậm chí còn phải tiến đến mức cải tổ bộ máy nữa. Nhưng nhìn lại, người ta thấy thủ tục vẫn tiếp tục nặng nề, so với một số tỉnh lân cận, như Đồng Nai, Bình Dương, hay Vũng Tầu, thì chậm hơn hẳn. Ở những tỉnh đó, người ta thấy rõ ràng bộ máy chính quyền thân thiện hơn.
Nói tóm lại, đó là một sự mất đà, thậm chí hụt hơi, trong quá trình đổi mới.
Bây giờ quay lại câu hỏi của anh, thực sự tôi có cảm giác ở đây cũng dính đến con người. Tôi phục vụ đến ít ra 3 thế hệ lãnh đạo, và nhận thấy rằng dường như những bức xúc của thế hệ ban đầu như cụ Nguyễn Văn Linh, cụ Mai Chí Thọ, hay cụ Võ Văn Kiệt, khiến họ phải quyết định đổi mới, thì tới thế hệ sau không còn mãnh liệt như trước nữa. Tức là người ta cảm thấy có thể đi chậm lại, có thể bớt tính đột phá, mà tình hình vẫn ổn.
Thứ hai là những năm cuối '90 bước đầu sang 2000, cùng với những cố gắng ra đời và hoàn chỉnh hệ thống pháp luật, thì sự kiểm soát của Trung ương chặt chẽ hơn, nhiều luật hơn và phép tắc hơn và định hình khung rõ ràng hơn. Trong khi đó, đổi mới thì đòi hỏi phải thay đổi, thậm chí phải "leo rào" nhiều hơn, thành ra có nhiều sự ngại ngùng.
Tôi có cảm giác đến một lúc nào đó người ta sẽ sợ mất quyền kiểm soát.
Thành phố sợ, hay Trung ương sợ?
Tôi chỉ nói ở cấp độ thành phố thôi. Cái này cũng phần nào đó lý giải được rằng những người lãnh đạo không hiểu kinh tế thị trường.
Khi Đại hội 6 (1986) nói về kinh tế thị trường theo định hướng XHCN thì thế giới rất mù mờ về Việt Nam. Đổi mới mà cho kinh tế thị trường phát triển và nới lỏng sự kiểm soát của nhà nước thì người ta rất ngại.
Chúng ta phải rạch ròi hai khái niệm: Nếu năm 1986 mà không đổi mới thì chết, và chúng ta đã đổi mới, nhưng khi sau này thấy đổi mới quá sẽ mất sự kiểm soát thì người ta ngần ngại.
Nói tóm lại, nỗi lo sợ lớn nhất là mất quyền kiểm soát đã cản trở mọi thứ. Tôi xin kể một ví dụ khá điển hình hồi đó.
Đầu những năm '90 có sự kiện rất đáng chú ý là cả Coca Cola và Pepsi Cola vào Việt Nam. Trong khi Coca Cola đi những bước thận trọng, qua người Việt, thì Pepsi Cola làm rất mạnh. Họ phát động một chương trình quảng bá rất mạnh với hàng loạt poster nhấn mạnh khái niệm "Thế hệ mới". Điều đó khiến cho hàng loạt ông giật mình.
Thậm chí, có vị trước đây là người ủng hộ đổi mới của Nguyễn Văn Linh rất mạnh, tức là có tư duy đổi mới, lại cảm thấy lo ngại rằng dường như Pepsi Cola đang phát động điều gì đó với giới trẻ, ngoài mục đích kinh doanh thuần túy. Và thế là trong Pepsi Cola mới xuất hiện ông Phạm Phú Ngọc Trai.
À, tức là mình phải đưa người vào để quản lý?
Đúng rồi. Tự dưng lúc đó người ta cảm thấy sợ vì những chuyện không vào đâu, và đó là một trong những yếu tố làm khựng lại đà đổi mới.
Ông Lương Văn Lý của DNL Partners
Hạt sạn lớn Nhiều người nói mình không hiểu Mỹ. Ông nghĩ sao?
Đúng. Mình có những người bắt đầu tìm hiểu Mỹ như ông Nguyễn Cơ Thạch, hoặc ông Lê Mai, thì người rút sớm, người mất sớm, thế nên mình không hiểu Mỹ và lớn hơn là không hiểu nền kinh tế thị trường nó vận hành thế nào. Như ví dụ mà tôi vừa nêu, chuyện công ty quảng cáo để hướng tới khách hàng trẻ là chuyện thường ngày ở huyện.
Khi thực hiện đổi mới thì bắt buộc phải nói về kinh tế trước. Vậy khi nói về kinh tế thị trường mà người ta không hề quan tâm đến nó. Mãi về sau này, tự nó vận hành thì các vị phải chạy theo. Theo mình đó là sự thiếu sót, tầm nhìn của người đổi mới không đủ để bao quát, mới chăm chú chuyện chính trị.
Cụ Nguyễn Cơ Thạch đọc sách của Samuelson về kinh tế tư bản nên đi đâu cũng nói câu chuyện lựa chọn giữa sản xuất bơ và súng. Ông là nhân vật hiếm hoi chịu khó tìm hiểu về Mỹ, về kinh tế thị trường, và bắt đầu quan tâm tìm hiểu về Mỹ, đặc biệt là chính trị nội bộ của Mỹ.
Trong khi đó, khi Việt Nam bắt đầu quan tâm đến Mỹ, là mình quan tâm làm sao Mỹ bỏ cấm vận, nên thông qua chính trị, thông qua các đoàn thể quần chúng, qua cả các chính phủ có quan hệ với mình ở phương Tây, để "ép" Mỹ bỏ cấm vận. Người ta xem việc bỏ cấm vận làm một thành quả về mặt chính trị, chứ hệ quả kinh tế thế nào thì người ta ít nghĩ.
À, tôi biết, lúc đó vì ông ở trong trung tâm của nỗ lực bình thường hóa quan hệ. Giống như vừa rồi, mình đặt vấn đề với Mỹ: rút lệnh cấm vận bán vũ khí sát thương, có người lại cho rằng quan hệ bình thường thì phải dỡ bỏ cấm vận, chứ chưa chắc Việt Nam có nhu cầu mua?
(Cười) Bối cảnh có khác. Thỉnh thoảng muốn làm hoà hay tăng thêm sức ép thì tung chiêu kinh tế thương mại, phục vụ cho mục tiêu chính trị, chứ không phục mục đích phát triển quan hệ kinh tế. Điều đó vẫn là một hạt sạn lớn làm cho cỗ máy quan hệ giữa Việt Nam với thế giới bị hóc.
Quay lại cái khủng hoảng tài chính Châu Á (1997-1998) tác động gì đến TP. Hồ Chí Minh?
(Lúc đó phó Giám đốc Sở Ngoại vụ) Tôi đã phát biểu rất nhiều, chủ yếu trong các cuộc họp nội bộ, rằng khủng hoảng '97-'98 không có tác động tới Việt Nam, vì thực tế là Việt Nam thậm chí chưa đưa một ngón chân vào kinh tế khu vực.
Thực sự, nếu có ảnh hưởng cũng chỉ là với khu vực đầu tư nước ngoài. Chẳng hạn như Hàn Quốc.
Nhưng khủng hoảng chưa đụng chạm đến tiềm lực cơ bản của thành phố. Trái lại có những thuận lợi từ Thái Lan chao đảo, thì lẽ ra phải có những động thái để chiếm lĩnh lấy những khoảng trống đó.
Chẳng hạn, tôi luôn nói là phải nhanh chóng cải tổ đổi mới ở những lĩnh vực then chốt như du lịch, đơn giản hoá thủ tục nhập cảnh, và đầu tư vào cơ sở hạ tầng. Tiền không có nhiều, nhưng phải tập trung để đón đầu.
Có điều, họ tiếp thu, nhưng không thực hiện gì cả. Và thế là đến năm 2000, sự mất đà đã thấy rõ, nhất là với thu hút đầu tư nước ngoài.
Huỳnh Phan

Monday, December 5, 2011

Lương Văn Lý- Trí thức Sài Gòn


Không phải vì “từ quan” ra làm dân ông mới nổi tiếng. Từ lâu, nhiều người ở Tp.HCM biết ông Lương Văn Lý là một nhà ngoại giao lịch lãm, một trí thức tài năng.



Ông có thể dịch cho hai cuộc trao đổi chuyên môn sâu bằng hai ngôn ngữ Anh – Pháp cùng một lúc.
Làm ông mai bà mối
 Thưa ông Lý, Phó giám đốc Sở Ngoại vụ, Sở Kế hoạch Đầu tư, bây giờ sẽ gọi ông chức danh gì đây? 
Là một doanh nhân bình thường, Chủ tịch Hội đồng Quản trị kiêm Tổng giám đốc Công ty Cổ phần Tư vấn Đại Nam Long.  
Sao công ty lại có cái tên nghe như “thuốc bắc”?  
Lấy chữ đầu tên 3 người cùng làm với nhau Đại Nam Long. Khi cô nhân viên đi đăng ký xin phép, lo lắng điện thoại về nói rằng luật yêu cầu tên công ty phải là tiếng Việt, có nghĩa. Một người nhanh trí bảo: Đại Nam Long thì cứ nói là Đại Nam Long. Tên hơi kêu quá! Công ty Tư vấn đầu tư. Tóm lại là ông mai bà mối của nhà đầu tư và dự án.  
Báo có đăng tin là ông kết hợp với cựu Đại sứ Mỹ Peterson trong công việc. Cụ thể thế nào?  
Ngoài việc ở công ty, tôi tham gia thành viên hội đồng quản trị của 2 quỹ đầu tư khác, trong đó có một quỹ có ông Peterson ở trong hội đồng quản trị. Chúng tôi là những thành viên độc lập, không góp vốn, không cổ phần. Chủ yếu là phản biện khoa học kinh doanh với cái nhìn hoàn toàn độc lập.  
Ông đã đổi vai – trước là Phó giám đốc Sở Kế hoạch và Đầu tư, nay lại ở vai doanh nghiệp ngày xưa ông quản lý. Ông cảm nhận thế nào?  
Chúng tôi mới chỉ làm 2 dự án nhỏ thôi nhưng tư vấn đầu tư 5 lĩnh vực nóng: bất động sản, hạ tầng giáo dục, y tế, công nghệ cao… Ông mai cho hai bên từ khi gặp nhau cho đến khi “cưới” (ra giấy phép chứng nhận đầu tư) phải mất 2-3 năm. Do thủ tục, huy động vốn, giải phóng mặt bằng. Công việc đầu tư cần nhiều thời gian, công sức, bên bỉ.  
Lúc đầu tôi không nghĩ gian nan như thế. Khi còn làm trong Nhà nước, nghe doanh nghiệp kêu, tiếp nhận, dù có thông cảm cũng ở mức người ngoài cuộc. Lúc đó cứ nghĩ là mình làm hết sức rồi. Bây giờ chính bản thân kẹt vào những khó khăn, thủ tục hành chính ấy, mới biết đá biết vàng.  
Ông vốn là nhà ngoại giao được đào tạo tốt, sang làm Kế hoạch – Đầu tư, rồi thành doanh nhân. Ông thấy công việc hiện nay có hợp với mình, hay chỉ là do cuộc sống đẩy đưa?  
Tôi thích công việc hiện nay. Trước hết tôi đã có một số kinh nghiệm ở Sở Kế hoạch Đầu tư, lĩnh vực quen thuộc. Thứ hai là công việc đem nhà đầu tư vào, khuyến khích quảng bá có cảm giác mình có ích, có đóng góp cho kinh tế đất nước. Thứ ba là công việc cho phép tiếp xúc với nhiều người nhiều quốc tịch, văn hóa, ứng xử khác nhau, đa dạng. Do giáo dục gia đình từ nhỏ và làm ngoại giao nên tiếp xúc đã trở thành nhu cầu không thể thiếu của tôi như ăn uống, hít thở. 
Khả năng quản lý Nhà nước – câu hỏi lớn
Ông tiếp xúc nhiều nhà đầu tư trong và ngoài nước. Họ nhận xét gì về Việt Nam làm ông suy nghĩ (ngoài chuyện thông thường là tăng trưởng nhanh, sợ thủ tục hành chính…)?  
Trước là tư cách nhà nước quản lý họ, ít có cuộc tiếp xúc thật sự bạn bè. Đội cái mũ ấy rồi, nghe lời phản biện thật sự thấy ít, chỉ thỉnh thoảng giống như đọc được cái gì đó giữa những dòng chữ. Nay thì rõ hơn, họ đều nghĩ đất nước này có tiềm năng, có tương lai, cái đó là chân thật.  
Còn băn khoăn? Khả năng quản lý của nhà nước là một câu hỏi lớn. Nhất là những tuần lễ gần đây, bộc lộ quá nhiều yếu kém mà trước nay do tăng trưởng kinh tế khoả lấp. Cách xử lý lạm phát, bất động sản, chứng khoán… thuốc quá liều, bệnh nhân muốn chết luôn.  
Tôi lo rằng những niềm tin mà người ta cảm nhận, sự hăm hở giảm mất. Cái quan trọng phải cho thấy là mình chắc tay, người ta khó tin nay thế này mai khác. Phải có tài trị quốc để họ yên tâm. Vấn đề thời điểm và liều lượng của chính sách.  
Theo cách nhìn của ông thì có gì đáng nói trước tình hình nóng gần đây trong kinh tế?  
Lý lẽ thì ai cũng biết. Thí dụ chống lạm phát thì bài bản cổ điển của thế giới là thắt tín dụng, giảm chi – đương nhiên. Nhưng có cái không ai nói ra là: vì còn có nhiều lợi ích cá nhân chen vào, biện pháp đưa ra bị sai lệch đi hoặc nửa vời. Nói giảm chi nhưng ngay lập tức có doanh nghiệp vay nước ngoài cả tỉ. Chi tiêu chính phủ chẳng thấm gì so với những dự án vĩ đại họ làm.  
Một số doanh nghiệp hỏi tôi có tin giá đất xuống không. Tôi nói sẽ khựng một thời gian thôi. Vì cung cầu, còn vì nhiều vị cán bộ làm chính sách, vợ con họ kinh doanh nhà đất, sao xuống được. Lợi ích cá nhân chen vào là vậy.  
 Làm ngoại giao tôi có nhiều ông thầy
 Nhiều người thấy tiếc khi ông rời ngành ngoại giao. Bản thân ông có tiếc không?  
Tôi cũng lạ khi thấy mình không tiếc lắm. Ở Sở Kế hoạch và Đầu tư tuy thời gian ngắn tôi vẫn cảm thấy như làm được nhiều hơn cho cộng đồng, có ích cho đất nước.  
Làm ngoại giao chả lẽ không?  
Nói thế nào cho khỏi có bạn bè buồn. Lúc ở Sở ngoại vụ tôi có cảm tưởng như đầu không đụng trời chân không đụng đất. Cơ quan Bộ phục vụ thành phố, dù nhiệm vụ rõ mà vẫn thấy chơi vơi. Ở Sở Kế hoạch và Đầu tư cũng là sở của thành phố nhưng thấy công việc cụ thể, làm xong thấy kết quả ngay.  
Tôi nghĩ nếu làm ngoại giao thực sự, phải ở Bộ tham gia được vào những chính sách, động thái, chiến dịch, các kế hoạch ngoại giao của đất nước.  
Nhưng chính ngoại giao đã đưa ông đi khắp thế giới và có nhiều kỷ niệm sâu sắc?  
Tôi đã tới 25 quốc gia. Kể châu lục chỉ còn Mỹ la tinh là tôi chưa tới. Những năm tháng tuổi trẻ mới vào đời, tôi gặp được rất nhiều người thầy dìu dắt chỉ bảo trong ngành ngoại giao. 
Những năm làm việc ở Bộ ngoài Hà Nội, được chuẩn bị các vấn đề cải tổ Hiến chương Liên hiệp quốc cho đoàn Việt Nam lần đầu đi họp Liên hiệp quốc, được sự giúp đỡ chỉ bảo ân cần của Vụ trưởng Nguyễn Thương.  
Nói về những người thầy thì nhiều lắm. Tôi vẫn nhớ hết từng ông thầy, bà thầy từ lớp 1, lên các lớp sau này, kể cả những thầy mình còn nhỏ, “ghét” nhất vì hay cho điểm zero. Rồi khi làm ngoại giao có thầy Nguyễn Cơ Thạch, Võ Đông Giang, từ tiếp xúc, trả lời báo chí cho đến nhiều vấn đề chiến lược ngoại giao. Tôi cũng được đi dịch, gần gũi học được nhiều từ những người lãnh đạo xưa kể cả đạo đức lẫn nghề nghiệp.  
Vừa rồi, khi quyết định không làm việc ở cơ quan Nhà nước, tôi cũng xin ý kiến những người thầy đặc biệt.  
Họ khuyên ông thế nào?  
Chú Năm Xuân (Đại tướng Mai Chí Thọ) khi đó còn sống – chú bảo: Thôi mày đã quyết định thì tao không cản. Lẽ ra nên tiếp tục làm thì tốt, nhưng tao cũng thấy không yên lòng lắm cách người ta đối xử.  
Còn chú Sáu Thảo (Dương Đình Thảo) thì bảo ông ủng hộ, nhưng giao nhiệm vụ: Ra tư nhân dưới góc độ doanh nghiệp nhìn Nhà nước, có gì thì đóng góp. “Tao đặt hàng mày vậy thôi”. Đó là hai ông thầy coi tôi như con cháu.
Trí thức Sài Gòn
 Có phải vì sinh ra trong gia đình trí thức Sài Gòn xưa nên ông là người được hưởng một nền giáo dục khá hoàn hảo của gia đình và nhà trường? 
Gia đình tôi chỉ là một gia đình trí thức trung bình của Sài Gòn xưa.  
Trung bình thì như thế nào, thưa ông?  
Vào thời ông cố tôi lẫy lừng hơn. Cố tôi từng là 1 trong 2 người giàu nhất Nam Bộ. Thời bà ngoại thì bà không nổi tiếng, mà là các em của bà, trong đó có người là ông Nguyễn Hữu Châu làm Bộ trưởng trong Chính phủ Sài Gòn.  
Ông ngoại tôi là Lâm Văn Tết, một trong số kiến trúc sư hiếm hoi thời đó. Sau cụ vào chiến khu cùng luật sư Trịnh Đình Thảo. Cỡ đó thôi, không thể sánh với độ lớn của nhiều gia đình trí thức Sài Gòn.  
Thuở bé, tôi học trường Tây cả cấp 1, 2, 3 sau đó đi học 7 năm ở Thụy Sĩ, trường Quan hệ Quốc tế.  
Vậy thì ông là một ông Tây con còn gì…?  
Chú Năm Xuân cũng gọi tôi thế. Ban đầu nghe “sốc” lắm sau quen dần. Khi tôi về Bộ ngoại giao có lần phải báo cáo một vấn đề quan trọng cho ông Lưu Văn Lợi lúc đó trộ lý bộ trưởng. Ông Lợi phủ đầu: Tôi chỉ có 10 phút. Làm thế nào báo cáo đầy đủ điều quan trọng nhất tôi cần biết.  
Lúc đó chú Thương Vụ trưởng gỡ bí cho: Cháu báo cáo thẳng bằng tiếng Pháp dễ cho cháu. Cũng sốc nữa. Mình người Việt Nam về Việt Nam phải dùng tiếng Pháp. Sau này ông Lợi gặp tôi bất cứ đâu cũng toàn dùng tiếng Pháp nói với tôi.  
Chú Năm Xuân gọi thế vì thời chú làm Chủ tịch thành phố, tôi thường đi cùng chú nhiều chuyến công tác nước ngoài. Một hôm trong bữa ăn sáng ở Ấn Độ, tôi cứ loay hoay tìm không thấy bơ đâu. Chú bảo: Mày quả thật là Tây con rồi. Không bơ không ăn được à? Chú coi tôi như con còn vì là bạn với ba tôi thời kháng chiến chống Pháp. Lúc đó ba tôi Trưởng ty ngân khố, còn chú Năm Trưởng ty Công an Cần Thơ.  
Người ta bảo ông rất “Tây”. Bản thân ông có thấy thế không?  
Tôi làm việc cho Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam có văn phòng liên lạc bên cạnh Liên hiệp quốc ở Geneve. Tuy học ở nước ngoài nhưng ai cũng biết tôi có ý định về nước ngay từ khi bước chân sang Thụy Sỹ. Chưa bao giờ tôi có ý định ở lại nước ngoài. Trong tâm tư tình cảm tôi không thể là một “thằng Tây” được.  
Ông “Việt Nam” như thế nào?  
Không có người Việt Nam xung quanh là tôi thấy mất mát lắm. Thứ hai là trong công việc, giao tiếp tôi học phương Tây nhưng cái gì riêng tư, tình cảm, bè bạn thì sâu sắc tế nhị phải là Việt Nam.  
Trong giáo dục gia đình, mẹ tôi thương con vô bờ nhưng kỷ luật kinh khủng. Học hành phải có kết quả. Tháng nào không xếp thứ nhất, ít ra cũng bị một bài “lên lớp” khoanh tay như ngày nay gọi lạ bản tự kiểm. Nặng hơn nữa, Noel không có quà. Mọi người có, mình không, kinh khủng lắm. Không đi chơi hè. Thậm chí bị đòn roi. Bà ngoại cũng cực kỳ nghiêm khắc. Các cháu, các em sợ chết khiếp…  
Nhờ kỷ luật sắt mà ông trở nên giỏi sao?  
Đó là nề nếp. Nhưng phải nói điều này: Bản thân đứa trẻ là quan trọng lắm. Có đứa nghiêm túc siêng năng, có đứa ham chơi.

Khi còn là công chức (ảnh của báo Người lao động)
Khi còn là công chức (ảnh của báo Người lao động)
Sống ở Sài Gòn
 Ông giữ được tác phong cổ, từ ngôi nhà cho đến tổ chức lễ tết. Bạn bè bảo nhà ông rất Tây mà lại rất cổ truỵền. Cuộc sống ở Sài Gòn nay xô bồ có làm ông khó chịu?  
Sài Gòn là thành phố tuổi thơ tôi, đô thị lớn, đầy đủ tiện nghi. Xưa tôi đi học ở Sài Gòn, thường cùng đám nam sinh chạy xe ra sau trường Marie Curie ngồi đồng ở đó ngắm nữ sinh. Khu xung quanh trường tôi là những phố nhiều cây như Lê Quý Đôn, Võ Văn Tần, Tú Xương, Ngô Thời Nhiệm, Nguyễn Đình Chiểu…  
Với Sài Gòn, gần như vấn đề yêu ghét kêu ca không đặt ra với tôi. Đó là môi trường sống tự nhiên của tôi từ trước tới nay. 
Kể cả nạn kẹt xe, người tứ xứ đến đông đúc, ô nhiễm…?  
Cũng giống như người Hà Nội than phiền là người Hà Nội xưa không còn, người tứ xứ đến. Điều đó không làm tôi khó chịu bằng việc ở đô thị lớn, lớp người sang giàu ăn trên ngồi tróc nhan nhản ở các nơi sang trọng nhất mà lại không văn hóa nhất. Cách cư xử nơi công cộng đã khác xưa. Còn việc giao thông đường xa, ra đường tất nhiên có bực một chút.  
Lớp người sang giàu mới ấy làm ông khó chịu như thế nào?  
Ngày xưa vào nơi sang trọng chút, không ai ồn ào, bây giờ họ nói cười hô hố, để con nít chạy la om sòm. Vì họ nói to, nên mình mới biết nội dung chuyện của họ là khoe giàu, khoe khôn.  
Một hôm tôi đi ăn với người bạn Tây Ban Nha, vào hiệu món Huế, trang trí phong cách cổ, lịch sự ấm cúng. Thấy hay cô xinh đẹp, model, mang theo cả laptop. Mà chuyện của họ toàn chuyện triệu đô. Rồi một cô thản nhiên giơ chân móc giày, gãi, cứ như ở phòng riêng. Họ làm phiền ở chỗ: môi trường bị phá bĩnh. Tôi sẵn sàng nhậu quán bình dân với bạn. Ở đó thì không nói làm gì.  
Xưa những người có tiền được giáo dục tốt. Nay thì tách rời hẳn hai khối người: một khối văn hoá có học, một khối có tiền. Do kinh tế phát triển tạo lớp giàu nhanh quá, phình ra thành giới riêng biệt. Một “xã hội mi ni” trong lòng xã hội, trong đó giá trị học vấn văn hoá không là giá trị cao nhất.  
Ông có thể phác ra theo ý riêng về trí thức Sài Gòn không?  
Có nhiều kiểu. Sống hơi thu mình, hơi kiêu một chút. Xem thường đám giàu mới và đương nhiên có một chút bất mãn, ức lòng. Lớp trí thức cũ nữa thì hẳn ra xem thường ngay cả khi họ đã đi cùng. Chắc có hẳn một xã hội trí thức mới Sài Gòn, làm giàu, trọng tri thức, nghiên cứu và thẳng thắn.  
Dù tôi biết rõ xưa có những người có tiền được giáo dục tốt, có văn hoá và nay thì hai cái, một bên văn hoá tri thức, một bên tiền bạc-rất tách biệt nhau. Nhưng tôi không bi kịch hóa, không than vãn: Sài Gòn ơi, Sài Gòn hỡi.  
Bởi vì trong sâu xa tôi hiểu lý do vì sao. Nhìn sang những nền kinh tế mới trỗi dậy có lớp người giàu nhanh chưa kịp giáo dục mình lại, chưa kịp nâng cấp văn hóa. Với thời gian, những người giàu ấy sẽ nhận ra, sẽ lại học và hoà nhập văn hóa.
Ra để làm giàu bản thân
Không thể không hỏi về chuyện ông “từ quan” ra làm dân, được dư luận cho là nằm trong vấn đề chảy máu chất xám của cơ quan nhà nước. Lý do ông trả lời báo chí là “về để lo kinh tế cho gia đình” không ai bắt bẻ được. Nhưng chắc không chỉ có thế?  
Tôi cũng nói rõ với lãnh đạo thành phố: nghỉ vì cả hai bên không giúp được cho nhau gì hơn nữa. Tôi làm cho Nhà nước lâu rồi, ở lại cũng thế này thôi. 5 năm còn lại không lẽ ngồi cho qua đi. Tôi ra ngoài làm mới cho tôi kiến thức, kinh nghiệm mới, thử thách mới để học, làm giàu thêm cho bản thân mình. Cái đó thật quá còn gì nữa.  
Không ai giữ ông lại sao?  
Không giữ được, vì tôi quyết liệt đặt vấn đề, không phải để thăm dò phản ứng hoặc để đòi trả giá gì. Tôi nói rõ là tôi xin để cho đúng qui định, nếu không cho, tôi vẫn có quyền nghỉ theo đúng Luật Lao động. Không có qui định nào nói công chức không được nghỉ việc.  
Ông có bị bệnh stress đô thị không? Làm việc, nghỉ ngơi….có khác trước không? Sống đô thị, ông sợ cái gì?  
Nhìn lại thì thấy mình không nghỉ bao nhiêu. Sáng thứ bảy có khi vào công ty chỉ để ngồi nghĩ, lắng đọng cho công việc. Kinh hoàng nhất là theo phụ nữ đi siêu thị. Có hai cực hình: đi siêu thị và đi đâu phải mang vác. Quải lên vai, trời ơi là trời. Tôi đi đâu cùng lắm là một cái cặp. Tôi không thích chốn xô bồ. Nhưng đi với phụ nữ thì làm gì có diễm phúc mua độp cái ra ngay, còn phải lê dạo khắp như công viên.  
Chiều thứ bảy tôi thích xem phim hành động, Ngủ trưa thứ bảy là niềm sung sướng. Chủ nhật ở nhà hoàn toàn, cùng vợ con đi chỗ này chỗ kia.  
Tôi luôn tiếp khách, nhiều bạn bè. Thành thói quen, không tiếp khách đâm buồn. Nói đùa: hôm nào về nhà sớm, vợ có khi… đâm lo. Bất thường. Ăn ở sao bạn bè không chơi nữa…
Theo Người đô thị, 4/2008