Showing posts with label van hoa. Show all posts
Showing posts with label van hoa. Show all posts

Sunday, August 18, 2013

“Giữ gìn sự trong sáng” hay triệt tiêu?


Tiếng nói/ ngôn ngữ của mỗi quốc gia dân tộc, bất kể quốc gia dân tộc nào, đều là một thứ tài sản vô giá, trước hết, với chính quốc gia dân tộc ấy. Nó là căn cước văn hóa của dân tộc. Mất căn cước văn hóa, dân tộc không là gì, không còn gì cả.
Chẳng thế mà trước đây ngót một thế kỷ, ông chủ bút Nam Phong tạp chí, nhân một dịp diễn thuyết về thi hào Nguyễn Du và danh tác Truyện Kiều, đã khẳng định: “Truyện Kiều còn, tiếng ta còn. Tiếng ta còn, nước ta còn”. Và về sau này, với tình yêu tiếng Việt vô hạn, thi sỹ Lưu Quang Vũ đã viết những câu thơ dào dạt đắm đuối: “Buồm lộng sóng xô, mai về trúc nhớ/ Phá cũi lồng vời vợi cánh chim bay/ Tiếng nghẹn ngào như đời mẹ đắng cay/ Tiếng trong trẻo như hồn dân tộc Việt/ Mỗi sớm dậy nghe bốn bề thân thiết/ Người qua đường chung tiếng Việt cùng tôi/ Như vị muối chung lòng biển mặn/ Như dòng sông thương mến chảy muôn đời…” (Tiếng Việt). Vậy nên, ở bình diện lý trí, việc giữ gìn tiếng nói/ ngôn ngữ dân tộc mặc nhiên đã trở nên một yêu cầu mang tính bắt buộc và thường trực. Trong trường hợp Việt Nam, yêu cầu ấy từng được một nhà lãnh đạo Đảng và Nhà nước - cố thủ tướng Phạm Văn Đồng – nhấn mạnh, cụ thể hơn, như một chân lý: “Giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt”.

Nhưng trong bối cảnh xã hội nước ta hiện nay, khi trình độ dân trí rõ ràng đã được nâng lên rất nhiều so với trước, và sự hội nhập với thế giới đang diễn ra hằng ngày, lại nảy sinh một câu hỏi: giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt như thế nào? Câu hỏi không hề là ngẫu nhiên, chỉ cần chúng ta nhìn thực tế đời sống của văn học dịch thời gian gần đây sẽ thấy: cụm từ “sự trong sáng của tiếng Việt” luôn được dẫn ra như một chuẩn mực để định giá chất lượng bản dịch tiếng Việt của những tác phẩm văn học nước ngoài. Hơn thế, như một lời răn đe trước những bản dịch bị coi là luộm thuộm, lủng củng, xa lạ, tối nghĩa về hành ngôn tiếng Việt. Quả đúng là đã có không ít bản dịch như vậy, và không gì khác hơn, chúng là sản phẩm tồi của những người dịch kém. Nhưng ngược lại, oái oăm thay, cũng có nhiều trường hợp bị kết án oan, và ở những trường hợp ấy, cụm từ “sự trong sáng của tiếng Việt” nhiều khi chỉ đơn giản là một thứ vũ khí sẵn có, được người ta sử dụng cũng chính bởi sự sẵn có ấy, như một quán tính.
Bản dịch tiểu thuyết Lolita của Dương Tường là một ví dụ. Khỏi phải nói, dịch Lolita, nghĩa là dịch giả chấp nhận đối mặt với thách thức cực lớn. Bởi nhà văn Mỹ gốc Nga Vladimir Nabokov vốn khét tiếng thế giới như một phù thủy về ngôn ngữ. Tiểu thuyết Lolita của ông trùng điệp những ẩn dụ, những trò chơi ngôn từ, những cấu trúc câu, những liên văn bản và xuyên văn bản bất tận, cực kỳ… quái đản! Tóm lại, theo nghĩa nào đó, Lolita là một mê cung ngôn ngữ mà người viết bày ra với mục đích, không gì khác, để tạo sự mờ đục làm rối trí người đọc. (Thứ văn chương làm rối trí người đọc cũng cần thiết, ít nhất, ở mức ngang bằng với thứ văn chương khiến người đọc được thư giãn). Trước một tác phẩm như vậy – một tác phẩm đã được chúng khẩu đồng từ xếp vào hàng kinh điển của tiểu thuyết hiện đại – mà dịch ra tiếng Việt sao cho đơn giản, dễ hiểu, “trong sáng”, thì cũng chính là cách xuyên tạc tác giả hiệu quả nhất. Một dịch giả lão thực như Dương Tường không chọn cách này. Ông trung thành với phong cách ngôn ngữ của Nabokov. Dịch Lolita, đến chỗ nào văn bản trở nên đa nghĩa hoặc quá tối nghĩa với người đọc, Dương Tường dùng chú thích. (Có tất thảy gần năm trăm chú thích trong bản dịch Lolita, được dịch giả khảo cứu từ nhiều nguồn, một sự nỗ lực và thận trọng hiếm thấy trong hoạt động dịch văn học ở ta hiện nay – không nên quên rằng trong bản dịch Lolita tiếng Pháp của Eric Kahane, bản dịch được chính Nabokov đánh giá rất cao, thậm chí chẳng có lấy một chú thích nào. Và do vậy, câu văn dịch “trên dòng kẻ có những dấu chấm” cùng lắm chỉ là một điều gây tranh cãi nho nhỏ của Dương Tường, người chủ ý không chịu diễn nôm hình ảnh mà tác giả sử dụng thành ý trực tiếp – chủ ý này không đáng để thiên hạ đổ xô vào đay đi nghiến lại như thể trời sắp sập). Nhưng những người đọc thụ động thì không đủ hứng thú và lòng kiên nhẫn để đi theo một trò chơi ngôn ngữ quá rắc rối. Họ khó chịu, và đó là dịp quá tốt để cụm từ “sự trong sáng của tiếng Việt”, luôn sẵn đấy, lại được dẫn ra như một lời răn đe.
Ví dụ này gợi nhớ đến cố dịch giả Cao Xuân Hạo. Sinh thời, ông Cao Xuân Hạo từng phàn nàn về chuyện có tác phẩm nào đó của F. M. Dostoievsky (xin miễn cho người viết việc phải nêu tên) được dịch ra tiếng Việt bằng một văn phong hết sức “trong sáng”, mềm mại, uyển chuyển, dễ đọc, và đọc rất “dễ chịu”. Trong khi trong nguyên tác tiếng Nga thì đó là một cách hành văn với tiết tấu giật cục, gấp gáp, tác giả cố ý sử dụng kiểu ngôn từ tạo cảm giác u ám, nặng nề đến tức thở, nhiều chỗ lại là sự thống ngự của những lớp ngôn từ thô thiển. Tác phẩm gốc như thế và tác phẩm dịch như thế, thì dịch đích thị là diệt, và cái quan niệm cứng nhắc về “sự trong sáng của tiếng Việt” chính là thứ vũ khí quá tốt để tiêu diệt phong cách của thiên tài văn học Nga. (Dịch giả Cao Xuân Hạo, vốn dĩ là người rất dị ứng với hệ tiêu chí “Tín, Đạt, Nhã” do dịch giả Trung Quốc Nghiêm Phục đưa ra, từng kêu lên đầy bực tức, rằng nếu như ở tác phẩm gốc, tác giả cố tình viết một cách thô tục, mà người ta lại cứ chăm chăm phải dịch ra tiếng Việt sao cho được Nhã, thì phải dịch cách gì đây để bảo đảm trung thành với nguyên tác?)
 Từ hai ví dụ trên, ít nhất, có thể rút ra một điều: nên có quan niệm và ứng xử cởi mở hơn trước yêu cầu “phải giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt”. Ngôn ngữ không phải là một hệ thống nhất thành bất biến. Nó như một sinh thể, thường xuyên vận động, thêm vào và mất đi, liên tục được làm mới. Mà một trong những con đường làm mới ngôn ngữ hiệu quả nhất, chính là việc dịch văn học. Lịch sử văn học dịch Việt Nam ngay từ đầu thế kỷ XX đã cho thấy: thông qua sự tiếp xúc và chuyển hóa những tác phẩm văn học thuộc các ngôn ngữ khác, tiếng Việt đã hấp thụ vào mình nhiều lớp ngôn từ mới, nhiều cấu trúc câu văn mới, nhiều mô hình tư duy ngôn ngữ mới, và đã trở nên giàu có hơn từ đó. Hãy cứ hình dung: nếu trước năm 1945 mà không có những bản dịch các tiểu thuyết chương hồi của Phan Kế Bính, Nguyễn Đỗ Mục (Tam quốc chí diễn nghĩa, Đông Chu liệt quốc), không có những bản dịch An Na Kha Lệ Ninh (Anna Karenina) của Vũ Ngọc Phan, Những kẻ khốn nạn (Những người khốn khổ) của Nguyễn Văn Vĩnh, và nhiều nhiều dịch phẩm văn học khác nữa, tiếng Việt của chúng ta chưa chắc đã đạt tới sự đa dạng và thanh thoát như bây giờ. Bởi vậy, nếu cứ khăng khăng “giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt” với mặc định rằng đó là một di sản ngôn ngữ đông cứng, thì hậu quả sẽ không chỉ là sự triệt tiêu phẩm tính đặc dị trong phong cách nghệ thuật của các tác giả văn học nước ngoài, mà còn là sự triệt tiêu khả năng phong phú hóa của bản thân tiếng Việt.
 Với văn học dịch là thế. Còn với sáng tác văn học trong nước thì sao? Có lẽ chỉ cần nói ngắn gọn: chúng ta không ủng hộ những sự làm xấu tiếng Việt, nhưng cũng không nên bám chặt vào một sự “trong sáng” mơ hồ nào đó của tiếng Việt để đóng sập cửa trước những nỗ lực cách tân ngôn ngữ văn chương. Xét cho cùng, “sự trong sáng của tiếng Việt” không ngưng đọng vào chỉ duy nhất một hình thái nào đó. Lối viết văn tiếng Việt với dày đặc những câu biền ngữ, đăng đối như trong các tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh hay trong Nho Phong của Nhất Linh Nguyễn Tường Tam, là biểu hiện của một thứ tiếng Việt “trong sáng”. Nhưng cũng “trong sáng” không kém là câu văn tiếng Việt của chính Nhất Linh ở giai đoạn sau, trong các tiểu thuyết như Đoạn tuyệt, Đôi bạn, Bướm trắng… cho dù câu văn tiếng Việt ở đây đã rất khác với ở Nho Phong. Hoặc giả, nếu cứ thuận theo ý kiến (không hề sai) của đa số độc giả, rằng các truyện ngắn và tùy bút của Thạch Lam là một mẫu mực về “sự trong sáng của tiếng Việt”, thì cũng không vì thế mà bảo những câu văn tiếng Việt của Nguyễn Tuân – ngôn ngữ được đẽo gọt rất cầu kỳ, sử dụng những kết hợp từ đầy bất thường và bất ngờ, những cú pháp bị vặn xoắn theo kiểu… chẳng giống ai – là không “trong sáng”. Nó là thứ tiếng Việt “trong sáng” theo cách khác. Tóm lại, nói khác đi, ở đây chúng ta buộc phải có một cái nhìn dân chủ hóa trước cụm từ “sự trong sáng của tiếng Việt”. Nó không giống như chân lý tối thượng của Chúa Trời, đơn nghĩa. Nó là một tập hợp của những chân lý tương đối, luôn mở ra, mời gọi sự sáng tạo của tất cả.
Không nên quên rằng trong lĩnh vực đặc thù như văn chương, ngôn ngữ đã không còn là ngôn ngữ tiêu dùng nữa, mà là ngôn ngữ của nghệ thuật. Xuất phát từ ngôn ngữ đời sống, nhưng nó đã được mã hóa. Và do vậy, nó mang đậm dấu ấn cá tính sáng tạo của người sử dụng, không loại trừ cả sự đánh đố, khiêu khích, gây hấn bằng ngôn ngữ. Vấn đề còn lại là thái độ của người tiếp nhận. Nếu ta cứ đòi hỏi ngôn ngữ văn chương phải hiền lành, đơn nghĩa, dễ hiểu, “trong sáng” theo cách của ngôn ngữ tiêu dùng, thì tốt nhất là chẳng cần có văn chương làm gì.
 Không nên quên rằng lời kêu gọi “Giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt” được nói ra trong bối cảnh một nước Việt Nam với trình độ dân trí nhìn chung rất thấp, tỷ lệ người mới thoát nạn mù chữ cao ngang với tỷ lệ người còn mù chữ. Để tuyên truyền, để vận động đối tượng này một cách hiệu quả nhất, không gì khác, cần phải sử dụng một thứ ngôn ngữ dễ hiểu nhất có thể.
 Nhưng không nên quên rằng bối cảnh xã hội Việt Nam hiện tại đã rất khác. Tốt nghiệp đại học đã trở thành chuyện “thường ngày ở huyện”. Và không nên quên rằng tiếng Việt là một sinh ngữ. Nó cần liên tục sống. Và liên tục vận động.
Hoài Nam

Sunday, April 14, 2013

Văn hóa tranh luận


Không phải cuộc thi đua
Tranh luận để tìm chiến thắng sẽ không thể nào tìm ra kết quả khả dĩ chấp nhận giữa các phía vì không có cuộc tranh luận nào mà sự chiến thắng là đích cuối của cuộc đua. Tranh luận không phải là cuộc thi đua vì thế khái niệm chiến thắng đã bị hiểu sai, và người tập trung dùng những chiêu thức đánh dưới thắt lưng đối phương buộc xã hội phải xét lại văn hóa tranh luận cần phải có những tiêu chuẩn nào, và tại sao có những điều không thể đem vào một cuộc tranh luận.
Xã hội dân sự là nơi thường xảy ra những cuộc tranh luận nhất vì ở đó là một tập thể dân chủ, tự do cùng theo đuổi một mục tiêu nào đó rất rõ ràng. Những cuộc họp thường kỳ sẽ tạo cơ hội cho các thành viên trong nhóm trao đổi quan điểm của mình. Những tranh luận xảy ra có thể lệch lạc lúc đầu khi cá nhân nghĩ đến dành chiến thắng cho mình, tuy nhiên chung quanh là những suy nghĩ, những quan điểm khác đã tự điều chỉnh những lệch lạc, trái chiều đó và dần hình thành một tiêu chuẩn cho các cuộc tranh luận: tập trung vào chủ đề, phân tích các yếu tố nội tại, phản bác những nhận định hời hợt, thiếu cơ sở khoa học và thuyết phục người tranh luận bằng kiến giải của mình.
Những vấn đề không thể chấp nhận trong các cuộc tranh luận được phát hiện từ những buổi họp dân chủ này cho thấy các chi tiết cá nhân, những thất bại, khiếm khuyết của đối tượng tranh luận không thể đem vào cuộc tranh luận như một chứng lý đả kích lập luận của đối thủ.
Bảo vệ quan điểm của mình và tôn trọng quan điểm của người khác là một trong những yếu tố nổi bật của một nền dân chủ trưởng thành.
Bằng cách nào đó, tranh luận là tập dượt, thao tác để hình thành mặt bằng dân chủ. Văn hóa tranh luận chỉ tồn tại khi mọi người ra sân ngang hàng nhau trong “tư cách con người” chứ không qua cấp độ văn bằng, tiền bạc, chức vụ hay thậm chí tuổi tác.
Câu chuyện của TS Alan Phan chúng tôi nghĩ là một tiếng cảnh báo văn hóa tranh luận của Việt Nam trong lúc này, khi mà nền dân chủ thực sự vẫn còn mơ hồ và bị lệ thuộc từ nhiều phía. Qua bài phỏng vấn với Luật sư Nguyễn Trần Bạt, giám đốc InvestConsult sẽ gợi mở thêm những gì mà văn hóa tranh luận đang va vấp.

Không bươi móc cá nhân

Mặc Lâm: Xin cám ơn Luật sư đã dành cho chúng tôi cuộc trao đổi hôm nay về vấn đề văn hóa tranh luận. Vừa qua như ông đã biết, TS Alan Phan đã đưa ra cảnh báo chính phủ không nên tiếp sức cho thị trường bất động sản và hãy để cho nó tự chết và tự tái sinh.
Ngay sau đó ông Đoàn Nguyên Đức chủ tịch tập đoàn Hoàng Anh Gia Lai đã có những lời lẽ được coi là mạ lỵ cá nhân TS Alan Phan trên nhiều tờ báo. Từ cung cách này Luật sư nhận xét thế nào về văn hóa tranh luận của nước ta trong mấy lúc gần đây, thưa ông?
LS Nguyễn Trần Bạt: Tôi nghĩ rằng có một sự va chạm nào đó giữa anh Đoàn Nguyên Đức và anh Alan Phan. Sự va chạm ấy nó không khái quát được không khí tranh luận ở Việt Nam hay người Việt Nam với nhau. Riêng cuộc tranh luận này tôi nghĩ đó là việc riêng của anh Đoàn Nguyên Đức và Alan Phan, nó phản ảnh không chỉ thái độ mà còn những bức xúc của mỗi một người.
Anh Alan Phan với tư cách là một nhà đầu tư trước đây và là một nhà hoạt động kinh tế thì anh ấy nói một cách khách quan hay ngoại cuộc về chuyện này. Còn anh Đoàn Nguyên Đức là một nhà đầu tư, và có lẽ là nhà đầu tư lớn, anh ấy vừa là người gây ra, vừa là nạn nhân và cũng là khổ chủ của câu chuyện bất động sản nên anh ấy có phản ứng của một người trong cuộc, và có thể đâu đó anh ta cũng là nạn nhân của câu chuyện bất động sản. Tôi nghĩ nó phản ảnh quan niệm khác nhau, thái độ khác nhau và phản ảnh cả hoàn cảnh khác nhau nữa.
Tôi không theo dõi kỹ phản ứng của anh Đoàn Nguyên Đức cho nên có lẽ xin phép anh Mặc Lâm tôi không đưa ra bình luận gì về phát biểu của anh Đoàn Nguyên Đức được. Thế nhưng do anh đã khái quát thành văn hóa tranh luận thì tôi nghĩ rằng văn hóa tranh luận rõ ràng là một cái văn hóa cần phải có tiêu chuẩn. Cái tiêu chuẩn ấy phải lấy khoa học hay cơ sở khoa học để không còn va chạm trong các cuộc tranh luận. Va chạm của các cá thể khác nhau mà là sự va chạm của những quan điểm khác nhau, và chuyện này tôi hoàn toàn đồng ý với dư luận đòi hỏi có một thái độ hợp lý và cơ sở khoa học trong các cuộc tranh luận.
Mặc Lâm: Thưa ông, nguyên tắc tranh luận thường gặp ở những buổi họp trong cơ quan, tại các hiệp hội tư hay trong những tổ chức xã hội dân sự của các nước dân chủ thì sự tranh luận luôn cấm kỵ bới móc cá nhân hay đưa ra những khiếm khuyết của họ để giành thế thượng phong. Trong vụ này thì ông Đoàn Nguyên Đức cho rằng ông Alan Phan không có đóng góp gì cho đất nước và vì vậy không có quyền đưa ra những nhận định như thế…
LS Nguyễn Trần Bạt: Nếu anh Đức nói như thế thì nói quá. Bởi vì quyền tranh luận là quyền của người đóng góp và cả người không đóng góp. Bởi vì nói cho cùng sự đóng góp nó có nhiều nghĩa, đóng góp một cách cụ thể các công trình, các dự án như anh Đức. Cũng có thể những đóng góp lẽ phải mà mình truyền bá, những nguyên tắc mà mình giới thiệu vì vậy quá trình tham gia vào một cuộc tranh luận không liên quan gì đến việc anh đóng góp hay không đóng góp. Phải nói rằng cá nhân tôi cũng không đồng ý với Alan Phan nhưng tôi không nói và nếu giả sử tôi có nói tôi cũng không phản đối anh Alan Phan như một số người, nhưng bảo đồng ý tôi cũng không đồng ý.
Về mặt khoa học của phát biểu, về phương pháp tiếp cận này khác thì tôi nghĩ rằng mỗi người có một cách khác nhau tôi không can thiệp về bản chất của các tiếng nói tranh luận dân chủ tức là tôn trọng bản chất của các cá thể, các ý kiến.
Có lẽ tôi không đồng ý quan điểm với anh Alan Phan nhưng tôi không động chạm tới thành tích cá nhân hay việc đóng góp hay không đóng góp của anh Alan Phan.

Biểu hiện dân chủ

Mặc Lâm: Ông chia sẻ thế nào khi các cuộc tranh luận mà tính dân chủ được công nhận và tuân thủ, tức là biểu hiện cao nhất của văn hóa tranh luận, nơi ấy mọi người đều có quyền được sử dụng chính kiến của mình như một khí cụ vừa bảo vệ vừa tấn công đối tượng tranh luận?
LS Nguyễn Trần Bạt: Tôi nghĩ ở các hoàn cảnh khác nhau thì chất lượng, động cơ của một cuộc tranh luận sẽ khác nhau. Dân chủ là một cách thức chứ dân chủ không phải là chất lượng phải có trong một cuộc tranh luận. Cuộc tranh luận giữa hai người đứng trông một người bị đánh, bị ăn đòn thì nó khác với cuộc tranh luận giữa người bị ăn đòn và người đánh. Vì thế chất lượng dân chủ cần được thể hiện trong hai cuộc tranh luận. Hai loại tranh luận này rất khác nhau.
Việt Nam là một quốc gia đang phát triển, một nền kinh tế mới nổi dậy đã gặp khó khăn ngay trong cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu nên phản ứng của Việt Nam có lẽ là phản ứng của người chịu trận một cách trực tiếp cho nên đôi khi không giữ được bình tĩnh. Nhà cầm quyền đôi khi cũng không giữ được bình tĩnh. Những người phát biểu, phản biện hay tranh luận đôi khi cũng có những vấn đề không được tử tế gì vì xã hội chưa hình thành tiêu chuẩn của các cuộc tranh luận, vì thế nó rất thiếu những cái mà anh gọi là những cuộc tranh luận chuyên nghiệp. Có lẽ Việt Nam cần phấn đấu để có những tiêu chuẩn trong các cuộc tranh luận chuyên nghiệp.
Mặc Lâm: Nếu đồng ý rằng tranh luận là biểu hiện mức độ dân chủ trong xã hội thì theo ông Việt Nam đã có tiến bộ dân chủ trong tranh luận hay chưa?
LS Nguyễn Trần Bạt: Tôi nghĩ rằng là tiến bộ nhiều. Nếu anh xem tranh luận là biểu hiện dân chủ thì phải nói rằng những cuộc tranh luận trong nước càng ngày càng trực tiếp hơn, càng ngày càng thuyết phục hơn, và gần các vấn đề bức thiết hơn.
Tôi chưa dám khái quát tranh luận là biểu hiện cái gọi là phát triển dân chủ nhưng nếu xem tranh luận là một dấu hiệu thì tôi cho rằng tranh luận tại Việt Nam ngày càng sôi động hơn, càng thiết thực hơn và càng ngày càng rầm rộ hơn, đặc biệt là đem so với những năm 90 trở về trước thì xã hội Việt Nam đổi thay nhiều. Những nhà lãnh đạo Việt Nam phải đối đầu với những ý kiến không thuận tai lắm. Phản ứng có thể khác nhau ở một số người, vào một số lúc và ở một số vấn đề, nhưng tôi nghĩ mật độ khả năng tranh luận, thực tế tranh luận và những vấn đề khác nhau kể cả những vấn đề xưa nay là “taboo” thì nó nở rộ và cái đó có lẽ biểu lộ tích cực khái niệm của điều anh nói là dân chủ.
Mặc Lâm: Trên mặt báo chính thống người ta không tìm thấy những cuộc tranh luận trước những đề tài thiết thân trong quá trình cải tổ xã hội hay chính trị. Có một thế lực vô hình ngăn cản những tiếng nói đóng góp vào việc phát triển đất nước thông qua các cuộc tranh luận công khai trên báo chí, luật sư có cho rằng đây là lực cản của sự phát triển hay không?
LS Nguyễn Trần Bạt: Tôi nghĩ dân chủ là một quá trình và tranh luận xã hội cũng là quá trình nó phát triển cùng với năng lực cũng như sức chịu đựng của các lực lượng tham gia chính trị trong nước. Nếu đem so với nhiều năm trước đây, năm mười năm trước đây thì tôi nghĩ xã hội phương diện này có tiến bộ. Còn nói trên báo chí công khai, báo chí chính thống không có các cuộc tranh luận thì tôi đồng ý có hiện tượng này. Hay nói cách khác có các cuộc tranh luận một chiều và những hiện tượng như vậy nó sẽ dần dần mất đi cùng với sự phát triển sức chịu đựng của những người trí tuệ tức là về phía người phản biện và người phản đối, tìm ra được một cách tiếp cận vấn đề phải chăng hơn, hợp lý hơn. Về phía nhà cầm quyền thì chắc chắn phải tìm được một thái độ vừa phải hơn và thích hợp hơn. Tôi nghĩ đó là sự phát triển năng lực chính trị của mỗi một lực lượng xã hội.
Tôi nghĩ trong một thời gian chắc chắn anh Mặc Lâm sẽ tìm thấy những dấu hiệu mới tuy nhiên phải nói rằng không thể nhanh được. Do chúng ta sốt ruột tìm ra một phương thức nào đó để làm cho xã hội tiến bộ hơn nên không thực hài lòng.
Mặc Lâm: Xin cám ơn ông.
 

Monday, March 11, 2013

'Kỳ thị' người Việt: Có phải vô cớ?

LTS: Xung quanh câu chuyện "kỳ thị" khách hàng là người Việt, mới đây, Tuần Việt Nam nhận được bài viết bàn về chủ đề văn hóa ứng xử. Chủ đề này tưởng như đã cũ, nhưng thực ra luôn cần thiết, khi nước Việt đang trên hành trình hội nhập. Để rộng đường dư luận, tôn trọng tính thông tin đa chiều, Tuần Việt Nam xin đăng tải bài viết. Và rất mong mỏi nhận được nhiều ý kiến tham góp, đề xuất những giải pháp xung quanh chủ đề này Tuần qua, dân đọc báo mạng chuyền nhau một bài trên tờ South China Morning Post: "Cư dân Chiang Mai choáng vì những khách du lịch Trung Quốc thô lỗ"[1]. Trong đó, tác giả liệt kê những thói hư tật xấu (rành rành) của nhiều người TQ như nói lớn tiếng nơi công cộng, không xả nước sau khi sử dụng nhà vệ sinh, cho trẻ em phóng uế trong hồ bơi, xả rác, khạc nhổ, chen ngang, lái xe ấu tả... Vì sao có sự kỳ thị? Rất nhiều người hả hê đồng tình với bài báo thẳng thắn này. Thật dễ hiểu! Người ta hoàn toàn có đủ lý do để hả dạ khi thấy người Thái Lan đòi hỏi chính phủ của họ phải làm "ra ngô ra khoai", yêu cầu họ giáo dục công dân của mình khi ra nước ngoài. Để người dân Chiang Mai có thể sống thịnh vượng an vui với ngành du lịch. Trong một diễn biến khác, người đọc báo Việt Nam cũng đồng thời đùng đùng nổi giận khi nghe tin một nhà hàng ở Phan Thiết từ chối bán hàng cho người Việt. Rõ ràng, theo những gì tường thuật trên báo chí, những lý lẽ mà ông chủ nhà hàng đưa ra không đủ sức thuyết phục. Nhất là khi ông phân bua "chỉ có 1% khách Việt mua hàng". Người ta mắng ông là "xúc phạm đồng bào". Người ta chê ông là vọng ngoại, chỉ ham phục vụ khách nước ngoài. Thậm chí, các cơ quan hàng tỉnh cũng lăm le nghĩ đến khả năng đóng cửa vĩnh viễn cửa hàng này, cho dù sự trừng phạt này hoàn toàn vi phạm pháp luật. Là chủ cửa hàng, ông ta hoàn toàn có quyền quyết định từ chối phục vụ bất cứ ai mà mình không thích. Không pháp luật nào qui định một chủ doanh nghiệp phải phục vụ tất cả mọi người cả. Xử nặng ông chủ cửa hàng nói trên, dù không đúng về pháp luật, nhưng dễ dàng được sự đồng thuận và ủng hộ của dư luận, nhất là dư luận của một đám đông rất dễ tổn thương và giàu tự ái dân tộc. Mải mê mắng mỏ, tranh cãi, người ta quên bẵng đi một việc: Sự kỳ thị khách du lịch Việt Nam là một việc có thật, hiển nhiên và sờ sờ trước mắt trong nhiều năm qua. Người viết đã từng nghe một chủ resort ở Hội An tâm sự: "Họ phá lắm anh ơi. Ăn nhậu, làm ồn, hạch sách... thâu đêm suốt sáng. Làm nghề ni thì phải chiều khách. Tụi em ráng được! Nhưng khách ở những phòng khác, họ chịu không nổi, bỏ đi hết. Riết chừ tụi em nghe giọng họ gọi điện đặt phòng là cứ nói hết chỗ cho nhẹ gánh!" Một nhà hàng ở Phan Thiết từ chối bán hàng cho người Việt Tương tự, vào dịp cuối tuần, khi những đường bay thẳng đến Cam Ranh hạ cánh, nhân viên những khu du lịch nổi tiếng ở đây tha hồ chịu đựng những đoàn khách hợm hĩnh, ăn buffet như tranh cướp, giành giật chỗ lên cáp treo, nói như quát nơi công cộng... Bờ biển Nha Trang, Đà Nẵng..., thay vì chỉ có tiếng sóng biển và phi lao, ầm ĩ tiếng karaoke chát chúa bằng những giọng hát khê nồng rượu bia. Những chủ nhà cổ miền Tây Nam bộ hiền lành, chân chất là thế, cũng phải đuổi thẳng cánh những khách du lịch Việt. Vì họ vừa ăn vừa phá, đòi hỏi trăm điều vô lý, sục sạo vào tận những không gian riêng tư của chủ nhà. Mà không chỉ người Việt kỳ thị lẫn nhau. Cái tiếng xấu của những người Việt hợm hĩnh, thô lậu... cũng đi theo những chuyến bay lan khắp thế giới. Ở Hàn Quốc, người ta khó chịu ra mặt khi phải mua bán với khách Việt. Ở Thái Lan, Singapore..., người ta viết những bảng cảnh cáo "cấm hút thuốc", "lấy đồ ăn vừa đủ"... chỉ bằng tiếng Việt. Ở Malaysia, cô hướng dẫn viên bản xứ kêu trời khi thấy đoàn khách Việt của mình chen chúc, lấn nhau vào điểm tham quan. Ở New Orleans, trong một đêm mà tôi là nhân chứng bất đắc dĩ, một Ts Y khoa người Việt, sau khi kiếm được một chai Whisky, bèn ung dung gầy độ với một vài đồng nghiệp khác. Họ uống rượu trong ca nhựa mà chủ quán khinh khỉnh đem ra, hò hét "dô 1, 2, 3..." như chốn không người. Mặc cho cái nhìn kinh ngạc của những thực khách khác... Người Việt nên tự nhìn lại mình Vô số những ví dụ tương tự về hình ảnh của "người Việt xấu xí", không kém cạnh bao nhiêu so với những đồng bào của tác giả Bá Dương [2]. Khác với những cộng đồng Việt Nam được kính trọng vì sự cần cù, giỏi giang như ở Pháp, Tây Đức cũ, hình ảnh người Việt đã hoen ố quá nhiều. Và rất dễ dàng tìm thấy những lý do hữu lý cho sự kỳ thị đó. Lại có người kêu ca: "Vì văn hóa hay phong tục khác nhau nên mới thế!". Xin thưa, không phải vậy. Vì văn hóa có thể khác nhau nhưng phép lịch sự, hay lề thói xã hội là phổ quát, là chung cho mọi dân tộc. Mà nguyên tắc cao nhất của sự văn minh, lịch sự thì đâu cũng vậy, là không được làm phiền người khác bằng những hành vi cá nhân. Từ đó, mới có những qui ước rất chung và dễ dàng được đồng thuận như không khạc nhổ, không nói to, ăn phải ngậm miệng, xếp hàng... Những qui ước này đã được học giả Phạm Cao Tùng diễn giải rất chi tiết trong cuốn Người Lịch Sự[3]. Cho nên, sau khi hả hê mắng người Trung Quốc, sau khi đùng đùng nổi giận với nhau, phải chăng người Việt chúng ta nên nhìn lại mình? Chẳng phải để "tự sướng" với dăm câu chuyện "truyền thống", nhưng để thấy cái xà nhà to tướng trong mắt mình, trước khi cười khoái trá với cái dằm nhỏ xíu trong tay người khác[4]. Một dân tộc mạnh trước tiên phải là một dân tộc biết sửa mình, chứ không chỉ chăm bẵm "tạo ra sự khác biệt" bằng cách xoáy vào sự thô lỗ của một dân tộc khác. Chỉ khi người Việt biết mổ xẻ, sửa sai những thói hư tật xấu trong ứng xử xã hội, chúng ta mới có cơ may trở thành một dân tộc tao nhã, thanh lịch như lời Ức Trai rất đỗi tự hào: "Như nước Đại Việt ta từ trước, vốn xưng nền văn hiến đã lâu!" BS Lê Đình Phương http://vietnamnet.vn/vn/chinh-tri/tuanvietnam/112257/-ky-thi--nguoi-viet--co-phai-vo-co-.html

Thursday, February 21, 2013

Đừng bắt học sinh thành nhà phê bình văn học


 TSKH PHAN HỒNG GIANG:
         
Đừng bắt học sinh thành nhà phê bình văn học
         
TSKH Phan Hồng Giang, nguyên Viện trưởng Viện Văn hóa Nghệ thuật Việt Nam, cho rằng tham vọng biến học sinh thành nhà phê bình văn học của những người làm chương trình – SGK môn Ngữ Văn khiến “văn mẫu” thịnh hành trong đời sống học đường.
          TSKH Phan Hồng Giang chia sẻ:
Mỗi lần cầm cuốn SGK Văn lên tôi lại hay bị rơi vào trạng thái bực mình vì gặp sự bất cập.  Dường như những nhà làm chương trình, các tác giả SGK  xác định chưa trúng lắm mục tiêu dạy học môn văn. Họ có vẻ chú tâm vấn đề giáo dục chính trị tư tưởng, giáo dục công dân trong văn trong khi dạy văn theo tôi, chủ yếu là để bồi dưỡng những tình cảm nhân văn của con người. Đặc biệt, nội dung học nhiều phần mang tính chuyên sâu, khiến người ta không khỏi nghi ngờ, phải chăng các tác giả chương trình, vô tình hay cố ý, muốn đào tạo học sinh phổ thông sau này thành những nhà phê bình, những nhà nghiên cứu văn học?
Có lần  một vị  Hiệu trưởng trường ĐH  thuộc khối năng khiếu nghệ thuật nói, nếu phải làm đề văn của Bộ GD&ĐT ra thì tôi có lẽ chỉ được 3 điểm. Tôi nói, vậy là ông giỏi, còn tôi may ra chỉ  được 2 điểm! Thật như thế! Người làm phê bình văn học chuyên nghiệp như tôi vớ phải những bài tập cấp THCS kiểu như phân tích nghệ thuật xây dựng nhân vật, thủ pháp tu từ nọ kia cũng  khó làm được đúng ý các tác giả SGK. Tôi đồ rằng các nhà văn – những người viết ra các tác phẩm đó - cũng không làm được. Nhà văn ngồi viết là viết, sức mấy mà họ so đo đong đếm xem mình sẽ dùng những biện pháp tu từ gì! Phân tích, mổ xẻ tác phẩm là việc của của nhà phê bình, ngay cả thầy cô giáo dạy văn cũng chưa chắc làm tốt được, sao lại bắt học sinh phải làm?
Thành thử sinh ra văn mẫu là thế. Bản thân học sinh không viết được bài phê bình về tác phẩm nào đó nên phải có văn mẫu để theo. Khi chấm bài, thầy cô giáo so xem bài làm đúng với văn mẫu đến đâu thì cho điểm đến đấy. Tôi nhớ cách đây mấy năm có một thí sinh thi ĐH được điểm tối đa bài phân tích thơ Xuân Quỳnh, về sau người ta phát hiện hóa ra bài làm đó giống một số bài văn mẫu. Bao nhiêu năm học một kiểu văn mẫu, học kiến thức theo lối thuộc lòng đã triệt tiêu khả năng tự mình suy nghĩ, tự nói lên ý kiến riêng của mỗi học sinh.
Vậy theo ông nên thay đổi nội dung dạy học môn văn  theo hướng nào?
Như tôi đã nói, mục đích của môn văn là chỉ cần giúp học sinh cảm nhận được cái hay, cái đẹp mang đậm  tính nhân văn thông qua một số tác phẩm cụ thể và biết cách trình bày lại ý kiến của mình một cách đúng ngữ pháp, dùng từ đúng ngữ nghĩa, viết đúng chính tả. Cái ngược đời hiện nay là chúng ta học hành thì có vẻ cao siêu nhưng viết không thành câu, không chỉ  học sinh mà kể cả một số thầy cô giáo, thậm chí cả vài ba vị  đã thành danh. Cứ mở Ti vi là được nghe những câu cụt câu què! Trong các văn bản đầy rẫy câu sai, kiểu “với tinh thần trách nhiệm cao, đã làm tăng vị thế của…” hoặc “quá trình” gì đó “đã thành” thế nọ thế kia. Một nhà biên kịch tham gia giảng dạy trong  một trường ĐH khối nghệ thuật nhận xét, gần như tất cả sinh viên trong lớp mà bà dạy viết không thành câu, đầy lỗi chính tả, sau khi học xong thì chẳng mấy em viết được kịch bản tử tế. Đó là những em đã được chọn lọc, nghĩa là có năng khiếu và đã đỗ sau một kỳ thi ĐH chứ còn học sinh đại trà thì chưa biết khả năng diễn đạt tệ đến mức nào!
Nhưng nếu chương trình thay đổi mà cách đánh giá - thi cử không thay đổi thì cũng chẳng giải quyết được gì. Nếu cứ đánh giá theo kiểu 0,25 điểm cho một ý như hiện nay thì chúng ta sẽ cho ra những sản phẩm giống nhau. Sự cá biệt hóa sẽ bị triệt tiêu. Thật đáng kinh hãi khi nhìn một đáp án bổ ra từng 0,25 điểm cho từng ý! Chấm văn thì anh phải nhìn toàn cục cả bài nó có ra văn không chứ không phải đếm ý cho điểm!
Nhiều giáo viên cũng phản ánh, với cách chấm bài đếm ý cho điểm theo barem của Bộ GD&ĐT như hiện nay thì một bài văn dẫu đạt 8 – 9 điểm cũng có thể không có chất văn…
Có thể do chuyện đánh giá văn chương cực kỳ khó và tuỳ thuộc vào trình độ của mỗi thầy cô nên Bộ GD&ĐT không có cách nào khác là phải đưa ra một barem chung. Nhưng lẽ ra chỉ nên coi barem như một kênh tham khảo cho giáo viên chứ đừng tuyệt đối hoá vai trò của nó. Bản lĩnh của người chấm rất quan trọng trong việc nhận ra sự khác biệt của một bài văn. Trước đây, có giáo viên phàn nàn về việc chấm bài thi ĐH, đại để một giờ phải chấm 20 bài, mỗi bài dài mấy trang  mà chỉ có 3 phút để đọc dẫn đến sự không chính xác trong đánh giá. Sinh thời GS Hoàng Ngọc Hiến nghe vậy bảo 3 phút chấm một bài văn là nhiều vì chỉ cần đọc dăm câu đầu là tôi biết được người này có viết được hay không nên chẳng việc gì tôi phải đọc hết!  Ông Hiến nói có lý ở chỗ chấm văn đòi hỏi sự tinh tế, sắc sảo, bản lĩnh rất cao của người chấm. Tôi không ít lần cũng phải chấm đề cương làm nghiên cứu sinh văn hóa – nghệ thuật. Có những đề cương, chỉ qua dăm câu đầu là đủ cho tôi thấy tác giả đề cương có đủ năng lực làm nghiên cứu sinh không!
Tại sao chương trình môn Ngữ văn hiện nay, kể cả cấp THPT có đủ hai phần Ngữ và Văn nhưng khả năng diễn đạt tiếng Việt cũng như khả năng cảm thụ văn chương của học sinh ngày nay đều kém? Nên chăng chương trình sau năm 2015 mà Bộ GD&ĐT đang chuẩn bị tách Ngữ và Văn thành hai môn trong đó Ngữ là môn công cụ giúp học sinh rèn luyện năng lực diễn đạt còn Văn là môn thuần túy giúp học sinh hiểu cái hay cái đẹp của những áng văn chương?
 Cũng cần phải tích hợp, nhưng đến một mức độ nào đó thôi. Nên xem môn Tiếng Việt là môn công cụ, mọi học sinh đều phải học dù sau này anh thi ĐH ngành nào. Dù anh làm nghề gì anh cũng phải biết diễn đạt ý tứ của mình một cách mạch lạc, đúng  ngữ pháp, không mắc lỗi nói câu què cụt, câu vô chủ. Cái này hiện nay học sinh của mình yếu nhất. Mà chẳng cứ học sinh, không ít giáo viên phổ thông hay giảng viên ĐH nhiều lúc viết cũng có đúng ngữ pháp đâu. Nó là hậu quả của hàng chục năm giáo dục đa phần là theo kiểu à uôm, được chăng hay chớ. Giáo dục phổ thông rất cần đề cao vai trò tiếng Việt dưới góc độ viết câu đúng ngữ pháp, dùng từ đúng nghĩa.
Còn Văn thì trọng tâm rơi vào việc giáo dục tình cảm, giáo dục tính nhân văn cho học sinh  thông qua  cảm nhận cái hay, cái đẹp của những tác phẩm văn chương đặc sắc. Với môn Văn điều quan trọng là làm sao khích lệ được sự tiếp nhận sáng tạo của học sinh. Làm sao để các em tự tìm đến tác phẩm, tự cảm thụ - cảm nhận theo cách của mình. Nếu các em cảm thụ không giống mình thì cũng không nên bắt bẻ mà cần để cho các em trình bày, nếu các em có lý thì mình phải chấp nhận. Như vậy trong một giờ học văn sẽ có những phát hiện, những góc nhìn bất ngờ từ các em học sinh. Ngoài ra có thể khuyến khích cả tập thể lớp tham gia tìm hiểu một tác phẩm. Một tiết học văn có thể là một tiết các nhóm thay nhau lên trình diễn một tiểu phẩm nào đó từ các tác phẩm cụ thể.
Nghĩa là tất cả mọi học sinh đều phải học môn tiếng Việt đến hết phổ thông, còn khi chương trình bắt đầu phân hóa (cấp THPT) thì sẽ có thêm môn Văn theo hướng chuyên sâu để những em có năng khiếu và thích văn chương lựa chọn?
Đúng thế.
Trong môn Tiếng Việt, có thể học sinh vẫn được tiếp cận với các đoạn trích, các tác phẩm nhưng  yêu cầu chỉ ở mức độ kiểm tra khả năng biểu đạt bằng ngôn từ của học sinh, khả năng đọc – hiểu, khả năng xử lý văn bản. Còn với đối tượng học sinh có năng khiếu, yêu thích môn Văn thì đi sâu hơn vào tính nghệ thuật của từng tác phẩm…
Đúng rồi. Nhưng chỉ e rằng số tự nguyện chọn môn Văn sẽ rất ít, đến mức không đủ người để các trường tổ chức lớp học…
Với sự phát triển của xã hội, đời sống của người dân dần khấm khá lên thì quan điểm của phụ huynh cũng sẽ thay đổi. Với lại người ta không thích cho con em mình học văn vì thấy nó vô bổ. Nếu dạy văn đạt được mục tiêu bồi dưỡng tâm hồn con người như ông nói ở trên thì có thể nhiều phụ huynh sẽ khuyến khích con mình học văn…
Muốn vậy thì cái tối thiểu hoạt động dạy học môn văn trong trường phổ thông phải đạt được là làm cho trẻ con không sợ văn mà yêu văn. Như nhà tôi chẳng hạn, trẻ con đến giờ văn là thấy e ngại vì nó buồn tẻ. Thời tôi đi học phổ thông thì ngược lại, giờ văn rất hấp dẫn. Có những thầy dạy rất hay, vào lớp là kể chuyện, chuyện Phăng tin, Cô dét, Gia ve (trong tác phẩm Những người khốn khổ của Victo Huygo). Có thầy thì kể chuyện Thủy Hử, Tam Quốc diễn nghĩa. Học sinh ngồi cứ há hốc mồm ra nghe. Không hẳn vì chuyện hay mà ở cách biểu đạt rất cá tính của những ông thầy. Hồi ấy làm gì đã có SGK. Mỗi thầy  là một tác giả “cuốn SGK” của mình (kỳ thực các thầy lên lớp chẳng mang theo sách vở gì cả). Có thể vì thế mà các thầy mới dạy được thoải mái như thế. 
Nhưng để dạy văn cho ra văn thì việc lựa chọn tác phẩm để đưa vào nhà trường cũng rất quan trọng phải không thưa ông?
Đúng vậy. Tôi từng ngồi “phụ đạo” cho cháu học và đau đầu vì không thể nào làm cho đứa trẻ con mới tí tuổi ranh hiểu được cái đời sống xã hội trong tác phẩm Vợ nhặt của nhà văn Kim Lân. Nó vừa đói, vừa khổ, vừa nhếch nhác…, rất xa lạ với đời sống của phần lớn trẻ con ngày nay. Hay từ  những lớp đầu cấp THCS học sinh  đã phải học thơ Đỗ Phủ. Một đứa trẻ  hầu như chưa có trải nghiệm sống làm sao hiểu  nổi cái ước mơ của một ông Đỗ Phủ nào đó đời Đường sống cách nay cả nghìn năm? Hoặc Cô bé bán diêm là một truyện rất hay của nhà văn Andersen nhưng dạy đại trà cho trẻ con đầu cấp THCS thì  có vẻ là chưa thích hợp lắm. 
Trong khi đó để bồi đắp những tâm hồn Việt, để tăng khả năng thưởng thức văn chương cho học sinh là các câu ca dao, tục ngữ… thì lại có mặt rất ít trong chương trình phổ thông. Theo tôi, phải đưa nhiều ca dao, tục ngữ và thậm chí buộc học sinh phải học thuộc lòng.
Vì sao?
Vì nó là tinh tuý của văn hoá dân tộc, của văn học. Nếu trẻ con được nhập tâm những câu ca dao tục ngữ đó thì điều này sẽ giúp ích rất nhiều cho cuộc sống của các em. Ngôn ngữ ca dao, tục ngữ rất đẹp nhưng cũng rất mộc mạc. Tư tưởng cũng rất nhân văn. Thơ của các tác giả thành văn sau này rất ít người bì được với ca dao. Tôi rất thích những câu như “Đêm qua ra đứng bờ ao, Trông cá cá lặn trông sao sao mờ…”, rồi “Trèo lên cây bưởi hái hoa, Bước xuống vườn cà hái nụ tầm xuân…”, nhiều lắm…
Hoặc một số bài thơ thành kinh điển trong kho tàng văn học Việt Nam nên yêu cầu học sinh học thuộc lòng, kiểu như Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi, trích đoạn Truyện Kiều, Chinh phụ ngâm hoặc gần hơn là Đất nước của Nguyễn Đình Thi… Tôi chống lại việc học vẹt máy móc nhưng trong một số trường hợp mà tôi đã nêu thì nên thuộc vì nó dễ ngấm. Khi ta thuộc những bài thơ hay thì cái hồn của nó ngấm vào ta từ lúc nào ta không hay. Có thể ta chưa hiểu hết giá trị của cái  hồn đó nhưng sau này khi trưởng thành ta sẽ thấy nó quý giá vô cùng.
Còn nếu học thuộc theo kiểu cuối truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu nhân vật họa sĩ nói những câu gì thì đúng là không cần. Nhân vật ấy nói gì, có khi hỏi  tác giả lúc còn  sống, ông ấy cũng quên. Hoặc những câu như ông Nam Cao sinh – mất năm nào thì không mấy cần thiết. Cháu tôi hỏi, ông ơi, học thuộc để làm gì nếu ngày mai lại quên?
Cảm ơn TSKH Phan Hồng Giang!
Hồ Ngọc thực hiện.

Sunday, February 17, 2013

NGUYỄN TRẦN BẠT: Khi niềm tin ’nhảy lầu’, sự lương thiện ’chết sớm’

Do thiếu niềm tin xã hội, nhiều người đã nhảy lầu tự kết liễu cuộc sống của mình… Phải làm sao khi đề cao tính lương thiện nhưng trong cuộc sống, người lương thiện là người chết sớm nhất?
Không phải là chúng ta mất lòng tin với nhau mà là chúng ta mất đi sự gắn kết – ông Nguyễn Trần Bạt chia sẻ cái nhìn về niềm tin và sự lương thiện trong cuộc sống.
Sống với nhau bằng niềm tin
Gần đây người ta nói nhiều đến việc bị mất niềm tin. Ông nhìn nhận thế nào?
Niềm tin ở con người là một thứ hoóc môn sống, là điều kiện cần thiết tối thiểu để con người ta yên tâm sống. Không có nó, người ta có thể không chết, nhưng cũng không sống đích thực. Không có niềm tin, con người chỉ sống một cách tối thiểu, rời rạc với nhau và tối thiểu với chính mình.
Không phải là chúng ta mất lòng tin với nhau mà là chúng ta mất đi sự gắn kết - ông Nguyễn Trần Bạt chia sẻ cái nhìn về niềm tin và sự lương thiện trong cuộc sống.
Không phải là chúng ta mất lòng tin với nhau mà là chúng ta mất đi sự gắn kết – ông Nguyễn Trần Bạt chia sẻ cái nhìn về niềm tin và sự lương thiện trong cuộc sống.
Niềm tin là chất kết dính của xã hội, nếu không có niềm tin, chúng ta sẽ cảm thấy vô cùng bất an bởi trạng thái cô đơn trong cuộc sống.
Phải chăng đã qua rồi cái thời chúng ta cùng hát một bài ca, cùng có những quyển sách gối đầu giường, cùng nhìn về một hướng?
Cùng hướng tới một cái gì đó không phải là kết quả của niềm tin. Đấy là kết quả của việc có cùng mục đích. Giống nhau chưa phải là tin nhau. Người ta tin vào sự lương thiện của con người, chứ không tin vào sự giống mình của người khác. Tôi cho rằng, con người phải có những bài hát riêng, bản nhạc riêng, nhịp điệu và màu sắc riêng. Nhưng vấn đề là ở chỗ chúng ta đang mất đi sức thuyết phục của sự gương mẫu chính trị và đạo đức của các đối tượng có trách nhiệm lãnh đạo và tổ chức xã hội.
Liệu khi có được lòng tin xã hội thì mỗi người trong chúng ta sẽ có hạnh phúc?
Chúng ta không thể có ngay được hạnh phúc, dù chúng ta có quyền mưu cầu hạnh phúc. Khi có được lòng tin xã hội thì người ta phải biết rất rõ rằng, người kia hơn mình là bởi tài năng đích thực chứ không phải bằng cách sử dụng các cách thức bất chính, như vậy, xã hội mới có thứ bậc; đó là động lực làm cho người ta phấn đấu.
Do thiếu niềm tin xã hội, nhiều người đã nhảy lầu tự kết liễu cuộc sống của mình, nhưng không chỉ có thế: hàng đêm rất nhiều người trong chúng ta cũng đã “nhảy lầu”, giết chết từng phần trong đời sống tình cảm của chính mình…
Các thần tượng “dởm” đi về đâu?
Tôi thấy độc giả giờ đây quan tâm nhiều nhất đến hai vấn đề, một là các vụ án bạo lực, hai là các ngôi sao thần tượng?
Báo chí cần phải cảnh giác với nguy cơ làm nhiễm độc đời sống tâm hồn của con người. Thông tin bạo lực quá đà có thể làm hư hỏng xã hội trên một quy mô khổng lồ, song đôi khi chúng ta chỉ lên án một cách khá nhẹ nhàng là “truyền thông lá cải”.
Thứ hai là các thần tượng dởm. Truyền thông nếu không cẩn thận có thể trở thành một phương tiện để “nhân giống” tất cả các lỗi lầm của con người và thổi phồng nó lên.
Muốn tin vào xã hội, trước hết người ta phải tin vào chính mình, ông có nghĩ như vậy?
Trong tất cả các niềm tin mà chúng ta thiếu thì cái thiếu căn bản nhất là tin vào mình, tin vào sự tử tế, lương thiện của mình. Cái đó thường bị lãng quên, bị xếp xó. Trong tất cả các vẻ đẹp mà truyền thông và nhà nước “xúc tiến” giờ đây ít thấy nhắc đến vẻ đẹp về sự lương thiện của các cá nhân. Sự dịu dàng của người đàn bà bị bỏ qua; thay vào đó là vô số thông tin vô bổ về những đôi chân dài…
Tin ở hoa hồng
Là người đã trải qua nhiều giai đoạn lịch sử, nhiều thăng trầm của cuộc sống, niềm tin trong ông biến động thế nào?
Tôi luôn luôn tin vào tôi, tôi luôn luôn tạo lập cho mình một phổ rất rộng các giải pháp để sống ổn trong những điều kiện khác nhau về tinh thần, vật chất. Bây giờ, bỗng nhiên chúng ta nghèo khổ trở lại, tôi vẫn có một cuộc sống không đến nỗi nào. Tôi đã từng là một trưởng phòng trong thời kỳ bao cấp đói kém, tôi từng phải lo cho gia đình lẫn cơ quan của tôi những con bò, con lợn vào ngày lễ, ngày tết để mỗi người có thể có được dăm bảy lạng, một cân thịt. Tôi đã đi từ những việc lo lắng nho nhỏ như vậy đến hiện nay, cho nên tôi luôn luôn rèn luyện cho mình có đủ năng lực để ứng phó với mọi tình huống của cuộc sống.
Như thế thì chúng ta chỉ nên tin vào mỗi bản thân mình thôi sao?
Không, khi chúng ta tin vào bản thân mình thì chúng ta hiểu con người mình. Khi chúng ta hiểu con người mình thì chúng ta có tư liệu, có kinh nghiệm để hiểu những người lân cận, và chúng ta “ước lượng” họ trong các phép tính của mình để tạo ra các cơ cấu xã hội trong khuôn khổ, hay trong không gian của mình.
Nếu chỉ tin vào bản thân mình, vào tài sản ở trong túi mình thì có phải là vụn vặt quá không?
Rất vụn vặt. Cái đó nó không còn là cuộc sống mà một tập hợp cơ học của con người.
Tại sao chúng ta chỉ có những niềm tin hết sức vụn vặt như vậy? Bởi vì chúng ta không có được một thiết kế, một cộng đồng mà ở đấy người ta xử lý vấn đề lòng tin một cách có cơ sở khoa học.
Có một vở kịch của Lưu Quang Vũ lấy tựa đề là “Tin ở hoa hồng”. Sau nhiều bầm dập, Lưu Quang Vũ vẫn tin, còn ông, ông có tin ở các khái niệm như sự cao thượng, hay lòng tốt trong bối cảnh hiện nay?
Có chứ! Một giáo sư trẻ tuổi đã từng “vặn” tôi rằng, “anh đề cao tính lương thiện nhưng trong cuộc sống, người lương thiện là người chết sớm nhất”. Tôi đã trả lời: “Lương thiện là tiên đề để hình thành con người và xã hội loài người, người ta không mặc cả với sự lương thiện. Sự lương thiện có thể làm mình chết, nhưng thà chết chứ không thể đánh mất sự lương thiện. Cái đó mà không khẳng định thì tức là đi đến trạng thái “to be or not to be” – Tồn tại hay không tồn tại rồi”.
Xin cảm ơn những chia sẻ của ông!
Theo Doanh nhân

Wednesday, December 26, 2012

Giới trí thức tinh hoa trong lịch sử Việt Nam

Để xây dựng kinh tế tri thức trở thành chủ đạo của nền kinh tế quốc dân, chúng ta cần có một lực lượng lao động tương ứng là lao động có kiến thức cao, nói khác đi đòi hỏi mọi thành viên tham gia nền kinh tế này phải là người lao động trí tuệ hoặc sử dụng trí tuệ như công cụ lao động chủ yếu, đặc biệt là phải hình thành một giới trí thức tinh hoa.
Chỉ từ những điều sở tri sở kiến của mình, chúng tôi muốn góp bàn về việc nhận diện thực trạng của giới tinh hoa trong lịch sử Việt Nam và những đặc điểm của giới đó có thể trở thành chướng ngại mà chúng ta cần khắc phục trong việc hướng tới hình thành giới tinh hoa mới trong công cuộc xây dựng đất nước hiện nay.

Trong lịch sử Việt Nam cho đến tận đầu thế kỷ XX, mẫu hình trí thức tồn tại lâu dài nhất, có tác động lớn nhất đến đời sống tinh thần xã hội là nhà Nho. Tinh thần văn hóa Nho giáo thấm sâu vào thành truyền thống, thậm chí thành bản sắc của nền văn hóa dân tộc. Về mặt diện mạo tổng thể, nền văn hóa Việt Nam từ thế kỷ XIV đến hết thế kỷ XIX là nền văn hóa Nho giáo. Nếu lưu ý đến “đặc điểm lớn nhất của xã hội Việt Nam thời đại ngày nay” là sự phát triển bỏ qua (hay ít nhất là cho đến nay cũng chưa thành một phương thức sản xuất/một hình thái kinh tế - xã hội hoàn chỉnh) đối với hình thái kinh tế - xã hội tư bản chủ nghĩa, thì phải đồng ý với nhiều nhà khoa học (1) rằng Việt Nam đi từ Nho giáo lên chủ nghĩa cộng sản.

Trước khi có nền học vấn Âu hóa của thời hiện đại, và cả khi nền học vấn đó đã, đang trở thành xu thế chủ đạo thì quán tính của nền học vấn truyền thống vẫn chi phối từng bước đi của lịch sử một cách mạnh mẽ, khá vô hình nhưng vẫn khá quyết liệt. La mort saisit le vif, - cái chết đang túm lấy cái sống. Sự “túm lấy” này, tuy không hoàn toàn chỉ mang nghĩa tiêu cực, nhưng những tác động tiêu cực của nó là điều không thể xem thường.


Trong vòng bảy, tám thế kỷ, đội ngũ trí thức - nhà Nho ở Việt Nam đã dần thay thế và cuối cùng là thay thế hẳn đội ngũ trí thức Phật giáo, tạo ra một nền học vấn kiểu nhà Nho, và vì thế, ngả theo mô hình của nền học vấn Trung Hoa. Nhưng khác với các trí thức Trung Hoa nói chung, tầng lớp nhà Nho Trung Hoa nói riêng, chưa bao giờ tầng lớp nhà Nho Việt Nam thực sự có được sự độc lập tương đối về chính trị, nhất là trong quan hệ với chế độ chuyên chế, để có thể có được những thành tựu độc lập trong sáng tạo tri thức và những giá trị tinh thần đủ để vinh danh chỉ riêng tầng lớp của mình.


Vào đầu thế kỷ XX, khi tự tỉnh và lay tỉnh quốc dân, nhằm “khai dân trí, chấn dân khí”, các nhà Nho duy tân đã đọc to lên tình trạng nghiệp dư quá quắt của tầng lớp mình:
Khỏi làng mắt chửa thấy xa
Lại toan mai mỉa hai nhà Khang, Lương
Ở nhà chân chửa ra đường
Lại toan ngang dọc bốn phương giang hồ
Hỏi: “Ông tu những đường mô?
Ông rằng: “Tu những làng nho đã thừa”
Hỏi: “Ông mộ những gì ư?
Ông rằng: “Mộ những người xưa là thầy”….
- Hỏi rằng: “Dây thép sao mau?”
Ông rằng: “Khí học cũng màu mà thôi”
Kìa như dây sắt, roi lôi
Nào ai bày đặt mọi ngôi cho đành?
Hỏi rằng: “Xe khí sao nhanh?”
Ông rằng: “nghề máy cũng lành mà thôi”
Kìa như lửa ống, nước nồi
Nào ai bày xét đến nơi nhiệm màu?
Năm châu tên gọi hay đâu
Lại chê người rợ mà gào ta hoa
Mắt nhìn chính học không ra
Lại chê người bá mà nhà ta vương” (4)
-“Hỏi cụ việc thực
Thì cụ làm thinh
Hỏi trận pháp binh thư thì cụ ù ù cạc cạc
Hỏi địa dư quan chế thì cụ u u minh minh;
Cụ chẳng biết kèn sao kêu, súng sao nổ?
Cụ không hay xe sao chóng, tàu sao lanh?
-“Khí học làm sao? Hóa học làm sao? Cụ dẫn Dịch tượng Thư trù chi Cổ đế
Cơ khí là thế, điện khí là thế, cụ rằng mộc ngưu lưu mã chi Khổng Minh
Cụ phải đeo thẻ đóng sưu, cụ muốn nước Nhật, nước Tàu sang bảo hộ
Cự mà ngâm thơ đọc phú, cụ mong ông Chèm, ông Gióng chi phục sinh
Ai nói chuyện tân học tân văn, cụ ghét hơn người đầu thuốc độc
Ai dâng câu cổ thi cổ họa, cụ mừng hơn trẻ được cái đinh” (5)
Lý luận Nho giáo không được khái quát lên từ thực tế Việt Nam, mà lý luận đó chỉ phù hợp nên có thể vận dụng được trên thực tế Việt Nam ở những thời gian lịch sử nhất định, dù quãng thời gian lịch sử ấy có thể và trên thực tế đã kéo dài, thậm chí đã quá dài. Theo cách nhìn nhận cá nhân, tôi cho rằng tuy Phật giáo ở Việt Nam chỉ thật thịnh trong một khoảng thời gian không dài, nhưng lại có những thành tựu về sáng tạo tinh thần đột xuất và có những gương mặt trí tuệ đỉnh cao, khả dĩ vinh danh và đại diện cho trí tuệ Việt hơn cả những đóng góp mà nhà Nho tạo nên trong một thời kỳ lịch sử dài hơn nhiều.

Nhìn vào những sản phẩm đỉnh cao cuối cùng theo cách nhìn cấu trúc đồng đại hóa, sẽ thấy trong đội ngũ trí thức nhà Nho Việt Nam thiếu một cách nghiêm trọng những trí tuệ lý thuyết, những xung năng sáng tạo lớn. Các tác giả Trần Văn Giàu, Trần Đình Hượu, Hà Văn Tấn đã nhiều lần lưu ý đến sự thiếu hụt ấy. Nói thiếu vắng hoàn toàn thì không phải, nhưng chắc chắn đội ngũ những người như vậy trong lịch sử Việt Nam khá thưa thớt, có những thế kỷ hầu như không tìm thấy được(2). Điều đáng cảm thán không chỉ là “ôi thương sao những thế kỷ vắng anh hùng” như Chế Lan Viên từng thốt lên, mà cũng cả “Ôi thương sao những thế kỷ vắng thiên tài”! Nhận xét tỷ mỷ hơn cả về điều này là ý kiến của cố học giả Trần Đình Hượu:

a) Không có ai có hứng thú đi vào những tư tưởng triết học. Chưa có tác phẩm, tác giả chuyên về tư tưởng triết học. Những người mà ta phải tính là các nhà tư tưởng như Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Lê Quý Đôn, Ngô Thời Nhậm, Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh… đều là như vậy.

Loại hình chính là những nhà hoạt động yêu nước, những người làm văn học, học thuật (chủ yếu là sử học), và thông qua hoạt động chính trị, học thuật hay nghệ thuật của mình mà đề cập đến những vấn đề tư tưởng. Những ông thầy khi giảng kinh, sử cũng bàn những vấn đề tư tưởng, mà nhiều khi chính những ông thầy đó lại nói tư tưởng nhiều hơn, nói nhiều nhưng là nói lại, có hay không sửa chữa chút ít.

b) Ở đây chưa hình thành mối quan hệ tương hỗ giữa khoa học kỹ thuật và triết học, tức là triết học làm cơ sở lý luận cho khoa học và phát triển theo sự phát triển của khoa học… Có thay đổi thì cũng chỉ là lấy, bỏ, thêm, bớt từ những cái có sẵn trong và ngoài từng hệ thống…

Nhìn chung, tư duy lý luận không phát triển. Những vấn đề nhận thức, logic, phương pháp không được bàn bạc. Ở đây phát triển một cách tư duy thực tiễn nhằm không phải vào sự chính xác mà sự hợp lý (phải khoảng). Cái ngự trị ở trong nhiều phạm vi là một cái lí - lẽ phải thông thường. Triết học không tách khỏi tôn giáo, học thuật. “Về căn bản, trong lịch sử chưa xảy ra một sự thay đổi nền móng sản xuất, tổ chức xã hội, văn hóa, học thuật. Tôi nói cả văn hóa, học thuật vì khi còn học theo, bắt chước, nói lại thì chưa gây ra tác động sâu từ khoa học sang triết học, không tạo ra cách mạng trong tư tưởng” (3).

Nền học vấn truyền thống theo Nho giáo ấy rốt cuộc ở lớp trên cùng chỉ đẻ ra được nhà Nho – ông quan (đường quan hay học quan, võ quan có học hay văn quan, kể cả loại “văn võ kiêm bị” đi nữa thì nói gọn lại, cũng chỉ là quan). Các loại hình trí thức then chốt của một xã hội trí thức, một kết cấu của tầng lớp trí thức thực thụ như nhà kỹ thuật, nhà khoa học (hay học giả), nhà nghệ sĩ, tiếp đến là nhà tư tưởng – nhà triết học loại thì xuất hiện thưa thớt, mở nhạt, loại thì hoàn toàn vắng bóng.

Học giả lừng danh nhất trong lịch sử Việt Nam trước thế kỷ XX là Lê Quý Đôn, người mà với tất cả sự ngưỡng mộ và lòng kính trọng cũng không thể gán cho là tác giả của bất cứ định lý, định luật hay nguyên lý, quy tắc nào, ý tưởng nào thực thụ mang tính đột phá tri thức, nên có lẽ danh xưng xứng đáng nhất trong việc phân loại chuyên gia khoa học thời hiện đại thì đúng nhất là xếp vào dạng nhà sưu tầm, nhà biên khảo hay nhà thư tịch học. Thật đau lòng khi phải nói lên điều này.


Nhà Nho thuộc loại hình trí thức nguyên hợp. Đó là loại trí thức điển hình cho một hình thái kinh tế-xã hội khi mà lao động trí óc chỉ mới là đặc quyền của một thiểu số rất nhỏ. Tuy so với loại quý tộc, loại người có được những đặc quyền chỉ nhờ quan hệ huyết thống với người hay dòng họ cầm quyền thì sự xuất hiện và phát huy tác động trong xã hội của trí thức nhà Nho là một bước tiến bộ, nhưng đến lượt họ, khi đã tự khẳng định và được khẳng định địa vị trong xã hội, trong cơ chế thì nhà Nho cũng từng bước một kiến tạo đặc quyền theo lối huyết thống hóa, tạo ra không phải những cá nhân người trí thức sáng tạo, mà những “thế gia, vọng tộc, cự môn”, vừa theo mô hình quý tộc hóa, vừa theo lối đẳng cấp giữ những chức năng đặc thù. Họ không ngần ngại gì mà không khẳng định “vạn ban giai hạ phẩm, duy hữu độc thư cao”, tự coi là người bề trên tự nhiên (và cũng thường được thừa nhận) là người đỡ đầu trực tiếp của các tầng lớp cư dân khác.

Với tôn chỉ “Nhất nghệ bất tri nho giả sở sỉ” (một nghề nào đó mà không biết thì kẻ làm nhà Nho tự thấy xấu hổ), họ thường kiêm luôn công việc của nhiều loại “chuyên gia” trong nhiều lĩnh vực khác nhau, thậm chí khá xa lạ đối với nhau. Người dân gọi họ là “thầy”, và ở nông thôn xưa thì nhà Nho làm tất tật công việc của các thứ thầy như vậy: thầy đồ dạy học (nho), thầy thuốc chữa bệnh (y), thầy địa lý lo chuyện phong thủy (lý), thầy bói xem tướng số (số), cả chuyện làm…thầy dùi, “tư vấn” cho các bên tham gia vào các vụ kiện tụng.


Bộ phận hiển nho - các nhà Nho hữu danh và thành đạt – cũng hầu như không có ai đủ căn đảm để chỉ “đi đến cùng một con đường đã chọn” có lẽ trừ Hải Thượng Lãn Ông. Ngay Hải Thượng Lãn Ông cũng chọn con đường trở thành một danh y vào lúc tuổi đời không còn trẻ và tình huống cơ hồ không thể khác. Nói tổng quát, mẫu trí thức nhà Nho ở ta chuyên môn hóa khá muộn màng và không trở nên là đội ngũ chuyên gia thực thụ, ở hầu như bất cứ bình diện nào của lao động sáng tạo tinh thần. Trong các hoạt động nghệ thuật, chỉ thơ là có thành tựu nổi bật, nhưng không có ai, kể cả nhà thơ vĩ đại nhất trong lịch sử văn học dân tộc là Nguyễn Du, cũng không trở thành nhà thơ “chuyên nghiêp”.

Một khi họat động sáng tạo tinh thần, lao động trí óc chưa được chuyên môn hóa, chuyên nghiệp hóa, thì mọi hoạt động lao động khác gắn liền với các hệ thống tri thức chuyên nghiệp sẽ chỉ trở thành các loại lao động thủ công, nghiệp dư. Tình trạng đó là phổ biến từ các loại làng nghề gắn bó xa gần với hoạt động nghệ thuật cho chí các loại làng nghề sản xuất ra các sản phẩm thuần túy mang tính thương mại. “

Công tượng”, gọi nôm na là thợ, xếp loại ba, sau nông dân, còn được an ủi là xếp trên loại người tiêu thụ sản phẩm cho họ, tức thương nhân, tầng lớp “dưới đáy”, bị gọi miệt thị là loại “con buôn”. Giữ gìn phương tiện mưu sinh: theo ý tôi trong cách hành xử ấy còn tiềm ẩn cả tâm trạng ẩn ức, cả sự chống đối theo kiểu tiêu cực, cả niềm kiêu hãnh về những phẩm tính và kỹ năng ưu việt không được thừa nhận.


***
Gia nhập xã hội hiện đại theo con đường bị cưỡng bức, không hề được chuẩn bị đầy đủ về mọi phương diện để thích nghi, thiếu nghiêm trọng những kinh nghiệm và thực tế tương ứng được với xã hội hiện đại từ truyền thống, tóm lại, với tính nhược tiểu thể hiện khá “hoàn hảo”, giới trí thức Việt Nam khi trở thành “tầng lớp trí thức bản xứ” thêm một lần nữa bị chủ nghĩa thực dân vày vò, ép ướp hoàn toàn có chủ đích chỉ nhằm biến đổi họ thành đám vong quốc nô có chữ nghĩa. Lịch sử còn lưu lại vô số bằng chứng cả trực tiếp cả gián tiếp chứng minh cho đường lối chính trị, chính sách trí thức thuộc địa này của thực dân Pháp(6).

Hệ quả cuối cùng của chính sách thực dân, dù những chính sách cụ thể trong từng thời kỳ nhất định có đổi thay theo hướng xoa dịu sự phản ứng của một cư dân bản địa dù sao cũng có hàng nghìn năm lịch sử đồng thời trên từng bình diện nhất định phải đáp ứng những đòi hỏi của tình hình khó khăn mà “mẫu quốc” lâm vào, vẫn cứ là một tầng lớp trí thức bản xứ với rất ít cá nhân thực sự đạt tới trình độ tinh hoa, đội ngũ chuyên gia tuy có số lượng khá hơn nhưng không toàn diện, gắn bó quá trực tiếp với sự điều tiết từ chính quốc chứ không phải gắn bó với xã hội và nền kinh tế tại chỗ, và một lượng đông đảo nhất những trí thức cấp thấp. Chất lượng của một tầng lớp trí thức như vậy, xét trên tương quan của một sự so sánh lịch đại, nghĩa là so sánh về khả năng đáp ứng những nhu cầu phát triển từng thời điểm lịch sử khác nhau, chắn chắn là còn kém hơn thời kỳ tiền thực dân.

Từ sau Cách mạng tháng Tám, thân phận con người, thân phận công dân của người trí thức được đổi thay về chất. Đại đa số những trí thức trong xã hội cũ vì thế hăng hái tham gia bằng sở học của mình vào các công việc của xã hội mới. Thời gian kháng chiến chống Pháp, tuy có quá nhiều khó khăn khách quan, một thế hệ trí thức mới đã xuất hiện, trưởng thành. Đội ngũ này, tuy về số lượng không thật đông đảo, nhưng lại đặc biệt có chất lượng. Đa số những tên tuổi lớn trong các lĩnh vực khoa học - kỹ thuật và nghệ thuật thời gian qua ở ta là thuộc về hoặc cơ bản là thuộc về thế hệ này. Phần lớn họ là những người ra đời trong khoảng từ 1920-1932.

Không phải ngẫu nhiên tôi chọn những mốc này: cho đến khi Cách mạng tháng Tám nổ ra, hầu hết họ đều đã có một thời kỳ học phổ thông và có được một “lưng vốn” tri thức nói chung, tiếng Pháp hay một ngoại ngữ nói riêng đủ để tự đọc sách và tự học tiếp tục. Những người sinh trước năm 1920 nếu thành danh thì đã thành danh trước Cách mạng, mà những người sinh sau năm 1932 thì “không kịp” có điều kiện như vừa tính tới.


Nhưng cũng từ sau Cách mạng tháng Tám xã hội Việt Nam trải qua hơn 30 năm là xã hội thời chiến hoặc bị chi phối mạnh mẽ bởi một hoàn cảnh thời chiến. Trừ một vài lĩnh vực đặc biệt, chiến tranh không phải là điều kiện dương tính cho sự phát triển của lĩnh vực lao động tri thức. Không quá khó khăn để chỉ ra các lĩnh vực đặc biệt ấy. Dù muốn dù không, tính phục vụ trực tiếp, tính ứng dụng là những yêu cầu được đặt lên hành đầu đối với lao động của người trí thức trong hoàn cảnh ấy. Cũng khó mà tạo ra những diện mạo trí thức, những tên tuổi lớn theo lối hàng loạt trong điều kiện như vậy. Xét cho cùng, sức sản xuất các giá trị tinh thần – cả trong khoa học xã hội lẫn khoa học nhân văn, cả trong nghệ thuật, trong văn hóa đều tùy thuộc vào nền sản xuất vật chất của xã hội. Ngay cả việc phản ứng lại một thực tiễn lớn cũng đòi hỏi tiền đề là sự tồn tại của cái thực tiễn ấy đã.

Mặt khác, kể từ sau Cách mạng tháng Tám, nền khoa học non trẻ của Việt Nam nhận được sự bổ sung về nguồn tri thức từ các nước xã hội chủ nghĩa có nền khoa học tiên tiến, chủ yếu là từ Liên Xô, và mức độ khác, từ Trung Quốc. Nhưng chỉ chưa hết một khóa học (đại học) từ sau năm 1954 thì giữa Liên Xô và Trung Quốc đã nổ ra những bất đồng. Vừa bối rối vì vấn đề phân liệt giữa các đảng cộng sản lớn cầm quyền, hết chống tệ sùng bái cá nhân lại rơi vào tình trạng phải đối phó với chủ nghĩa xét lại, người trí thức mới trẻ tuổi vừa còn phải “tuân thủ mọi yêu cầu của tổ chức, mọi nhiệm vụ được phân công” mà không phải lúc nào những yêu cầu ấy, những sự phân công ấy cũng được kế hoạch hóa, duy lý hóa. Tiếp theo đó là Đại Cách mạng văn hóa, mà một trong những đặc điểm nổi bật của cái gọi là cuộc Đại Cách mạng văn hóa này lại chính là ở tính chất phản văn hóa, phản tri thức của nó, tuy diễn ra và tác động tai hại trước hết và chủ yếu là ở Trung Quốc, nhưng không thể nói Việt Nam nằm ngoài vòng ảnh hưởng của biến cố kinh hoàng này.

Giới trí thức tinh hoa ở mọi dân tộc đều là báu vật, nói như ngôn từ được làm sống lại gần đây đối với những ý tưởng truyền thống, thì họ là “hiền tài”, là “nguyên khí quốc gia”. Vậy những nạn “chảy máu chất xám” đã là điều nguy hại, mà nạn “lãng phí chất xám”, thậm chí còn khó nhận dạng hơn và khó khắc phục hơn, theo thiển ý, cũng cần nêu lên thành vấn đề lớn hiện nay.

Có thể nói, ở ta mới có những người trí thức lớn,- không đông lắm mà nói thực thì cũng chưa được “lớn” lắm - nhưng chưa thể nói rằng đã có giới trí thức tinh hoa. Mà chừng nào trí thức tinh hoa chưa thành một giới, nôm na là núi không có đỉnh, thì khó lòng bàn đến “tầm” trí tuệ Việt Nam, tuy đó là điều không hiếm người thành tâm khao khát khẳng định.


---

(1) Tham khảo, chẳng hạn:
- Trần Đình Hượu Đến hiện đại từ truyền thống. Nxb Văn hóa và Thông tin 1996.
- Le contact colonial franco – vietnamien le premier demi – siècle (1858 – 1911) Nxb Universitè de Provence (PUP), 1999.
- Trịnh Văn Thảo Vietnam du confucianisme au communisme. Nxb Presse Universitaire Francaise (PUF) 1992.

(2) Tham khảo những tài liệu liên quan đến cuộc thảo luận về việc viết lịch sử tư tưởng Việt Nam. Viện Triết học, 1984.

(3) Trần Đình Hượu, Sđd

(4) Thơ văn yêu nước và cách mạng đầu thế kỷ XX (1900 -1930) Nxb Văn học Hà Nội 1976.

(5) Các bộ lịch sử, lịch sử tư tưởng Việt Nam của cả các tác giả người Việt lẫn người Pháp đều cung cấp nhiều tài liệu liên quan đến điều này.

Thursday, June 28, 2012

Nguyễn Trần Bạt:Không có gì tử tế trên nền văn hóa kém

Chúng ta rất đau khổ vì nền kinh tế của chúng ta những năm trước tăng trưởng 7-8% mà năm nay có khi chỉ tăng được 5% thôi, nhưng chúng ta không hề xấu hổ, không đau khổ trước việc chúng ta chế biến thịt súc vật chết để bán cho mọi người. Chúng ta chỉ xấu hổ vì nghèo đi mà chúng ta quên mất xấu hổ vì sự xấu đi về mặt đạo đức. Chuyện đó là chuyện quan trọng hơn tất cả những gì chúng ta bàn ở trên – ông Nguyễn Trần Bạt.

Chúng ta chưa có kinh nghiệm mô tả sự thật
Ông Nguyễn Trần Bạt
Ông Nguyễn Trần Bạt
PV: - Tuần vừa rồi, bài phát biểu ngắn kết thúc năm học của một giáo viên Trường trung học Wellesley, bang Massachusetts, Mỹ đã được dư luận Mỹ tiếp nhận như một lời nói thật, một cảnh báo giáo dục: “Các em chẳng có gì đặc biệt cả”. Xin ông hãy lý giải, tại sao một đất nước tôn trọng tư duy độc lập cá nhân như Mỹ, lời nhận xét trên đáng lẽ là bình thường nhưng lại được tiếp nhận một cách cầu thị nồng nhiệt đến vậy?
Ông Nguyễn Trần Bạt: - Điều đó thể hiện người Mỹ đã thức tỉnh. Từ xưa tới nay, họ luôn luôn coi mình là tiêu chuẩn, nước Mỹ luôn là "miền đất hứa".
Mặc dù sống khá lâu trong sự thành đạt nhưng khủng hoảng kinh tế và tài chính hiện nay đã khiến họ bỗng nhận ra tính bình thường của xã hội mình.
Và đấy là một dấu hiệu vĩ đại của nước Mỹ khi nó còn giữ được năng lực thức tỉnh, nhận ra chính mình, biết đón chào một ý kiến như vậy.
Tôi hoan nghênh nước Mỹ, hoan nghênh thái độ ấy và hoan nghênh cả ông thầy dám đưa ra tuyên bố trái với thói quen vốn có của người Mỹ.
Tôi rất thích ví dụ bạn đưa ra và tôi thích câu hỏi này. Tôi đề nghị trong chừng mực nào đó, báo chí các bạn giúp cho những ông bố và bà mẹ Việt Nam nên có thái độ này, những cô giáo thầy giáo Việt Nam nên có thái độ này và các nhà lãnh đạo Việt Nam nên có thái độ này.
Chúng ta cũng nên chào đón thái độ khiêm nhường đó của các nhà lãnh đạo, của các thầy các cô như người Mỹ đang làm. Đây là một ví dụ tốt, là một ví dụ mà tôi rất thích, một ví dụ rất đẹp về giáo dục.
PV: - Người Việt mình có câu “thuốc đắng giã tật, sự thật mất lòng”, theo ông, trên thực tế chúng ta có thói quen nói thật và nghe được lời nói thật hay không? Tại sao những lời nói thật hay những phản biện lại khó lọt tai đến thế, trong khi ai cũng tưởng rằng mình cởi mở, sẵn lòng nghe góp ý dù có… trái với mình đến đâu đi nữa?
 
" Nếu lời nói thật được mô tả một cách hấp dẫn, có văn hóa thì khả năng được tiếp nhận của nó sẽ cao hơn. Tất nhiên, cũng không loại trừ khả năng, người phải nghe sự thật có văn hóa thấp mà lại là người mạnh. Chúng ta không bao giờ nên đối thoại với những người như thế."
 
    Nguyễn Trần Bạt
Ông Nguyễn Trần Bạt: - Tôi vừa mới thảo luận với con trai tôi về sự thật và tính hiệu quả của việc mô tả sự thật. Tôi nghĩ, chúng ta có thể không chê bai sự thật, có thể tôn thờ sự trung thực nhưng chưa biết cách mô tả sự thật một cách hấp dẫn để con người biết yêu mến sự thật.
Tôi muốn kể với bạn câu chuyện như thế này. Có hai anh em nhà nghèo bữa ăn chỉ có cơm không, không có thức ăn gì. Hai anh em bảo nhau, bây giờ em ăn trước, nhưng để em ăn cho ngon thì anh mô tả sự ngon ngọt của thức ăn để em có cảm  giác ăn ngon.
Cậu anh mô tả con gà quay lên như thế nào, món bò xào như thế nào, món cá kho như thế nào… Người em tiết hết dịch vị ra và ăn bát cơm không rất ngon lành. Người em ăn xong, đến lượt người em mô tả cho người anh ăn. Người em ăn no rồi cho nên chỉ nói một câu đơn giản: ước gì có một con bò để làm thịt cho anh ăn.
Đấy là hai cách tiếp cận khác nhau đối với một sự thật là người ta cần phải được hỗ trợ kỹ thuật để ăn cho ngon một bữa cơm nghèo. Một ví dụ khác: Một vị nhà giàu đi tuyển người thuyết phục người làm như sau: "Bác ở với người ta, sáng ăn rồi mãi đến chiều mới được ăn. Chứ bác đến ở với nhà em là cứ sáng ăn - chiều ăn, sáng ăn - chiều ăn". Sáng ăn và chiều ăn là một sự thật nhưng ở hai cách mô tả này hoàn toàn khác nhau.
Chúng ta có thể dễ dàng nhận thấy, cách mô tả nào hấp dẫn hơn.Sự thật không phải là một khái niệm đơn giản, sự thật là một khái niệm phức tạp, có nội hàm phong phú và nó là một trong ba khía cạnh của cái đẹp,chỉ có điều chúng ta không được rèn luyện, không đủ bản lĩnh, không đủ kinh nghiệm để mô tả sự thật.
Chúng ta vẫn thường bảo là "thuốc đắng giã tật, sự thật mất lòng". Sự thật mà biến nó, sắp xếp nó, cân đong đo đếm nó tương đương với thuốc đắng thì chúng ta là kẻ ngốc nghếch không biết giá trị của sự thật và không biết cách thể hiện sự thật. Chúng ta phải rèn luyện khả năng biết mô tả sự thật để làm cho người ta "xơi" nó mà không cảm thấy vị đắng của thuốc.
Thật không dễ nghe khi sự thật được nói ra xâm phạm tới lợi ích của người đối thoại. Trong trường hợp này, phải làm rõ, lợi ích của người đó có chính đáng hay không, nếu có, thì người nói ra sự thật đó có lỗi.
Nếu lợi ích ấy không chính đáng, việc người đó có nghe hay không là phụ thuộc vào nghệ thuật mô tả của người nói. Nếu lời nói thật được mô tả một cách hấp dẫn, có văn hóa thì khả năng được tiếp nhận của nó sẽ cao hơn.
Tất nhiên, cũng không loại trừ khả năng, người phải nghe sự thật có văn hóa thấp mà lại là người mạnh. Chúng ta không bao giờ nên đối thoại với những người như thế, phải dùng một cách khác, không phải là tiếp cận văn hóa mà là tiếp cận sức mạnh, sức mạnh của số đông chính nghĩa.
Vì sao phụ huynh Việt Nam tự “đánh lừa” mình?
PV: - Ở Việt Nam, có một nghịch lý đang tồn tại trong việc giáo dục các cô các cậu học trò nhỏ: Trong nhà thì bố mẹ ông bà ra sức chăm sóc, chiều chuộng…thầm hy vọng con mình sẽ là “thiên tài” hoặc có tài năng độc đáo….nhưng ra ngoài xã hội thì chính họ lại rất sợ cụm từ “học trò cá biệt”, “học sinh đặc biệt”... Hiện tượng này phản ánh điều gì vậy, thưa ông? Liệu nó có ảnh hưởng gì đến chuyện trẻ con không có tư duy độc lập, mà thường bị hòa vào đám đông?
Ông Nguyễn Trần Bạt: - Xã hội nào cũng thế. Xã hội của bầy thú cũng thế. Nó sống được, tự tin được là vì vẻ đẹp riêng của chính nó và vì những giá trị mà nó nghĩ rằng nó có. Nhưng nó tồn tại được, thoát chết được bằng sự kín đáo của nó.
Hai trạng thái ấy chính là hai trạng thái khuyến khích hình thành bản lĩnh của con người: yêu mình, tự tin vào bản lĩnh, sức mạnh, sự hoành tráng của mình với kín đáo, khôn khéo, đi, bò, trườn dưới tên bay đạn lạc.
Về khía cạnh thứ hai, tư duy độc lập và nói ra tư duy độc lập tùy thuộc môi trường vĩ mô. Nếu từ nhỏ không được diễn đạt tư duy độc lập, nếm trải cái đúng và cái sai của nó, nếm trải sự ném đá và sự hoan hô trước mỗi một tư duy độc lập được diễn đạt ấy, thì người ta sẽ không có kinh nghiệm.
Và nếu phải phê phán, hãy phê phán môi trường vĩ mô khiến trẻ con không biết nói tiếng nói độc lập của mình, chứ không thể dồn sai lầm đó vào khuyết tật có tính nhân chủng học của người Việt.
PV: - Như ông nói, đó là phản ứng tự nhiên. Vậy nguyên nhân nào về mặt xã hội khiến phụ huynh Việt Nam hành xử theo cách như vậy?
Ông Nguyễn Trần Bạt: - Việc quảng bá quá nhiều về tài năng, luôn luôn “nhắc nhở” các bậc phụ huynh rằng hiền tài là nguyên khí quốc gia, đã làm hỏng người Việt. Coi nhân tài là "nguyên khí" dẫn đến việc phụ huynh sẽ cố gắng để trong nhà mình có chút "nguyên khí".
Và họ đành tự đánh lừa mình để yên tâm mà sống. Chúng ta nói quá nhiều chuyện hiền tài là nguyên khí quốc gia, trong khi quên mất rằng con người mới là nguyên khí của đời sống.
“’… Chúng ta đang biến vô đạo đức trở thành sản phẩm giáo dục”?
PV: - Dư luận đã lên tiếng khá nhiều về sự vô cảm thậm chí nhẫn tâm với đồng loại như nạn thực phẩm bẩn, độc hại tràn lan ngày càng nhiều và không có dấu hiệu suy giảm. Cái quả đắng này phải chăng nảy sinh từ những vấn đề cơ bản trong giáo dục thế hệ tương lai hiện nay: nạn chạy trường, chạy điểm, không chú ý giáo dục nhân cách sống…?
 
" Con người đang chế tạo ra những sản phẩm phi đạo đức một cách rất có trình độ. Những người không học tốt về hóa rất khó để có thể cho melamine vào sữa. Phải có trình độ khoa học và năng lực nhất định mới có thể tạo ra trạng thái sữa có melamine, xay thịt trộn mắm tép thơm lừng để ngụy trang thịt xúc vật chết. Chúng ta đang chểnh mảng trong việc giáo dục đạo đức cho nên các hiện tượng vô đạo đức đã lẻn vào đời sống của nhà trường và đời sống của xã hội".
 
                      Nguyễn Trần Bạt
Ông Nguyễn Trần Bạt: - Ngay cả nơi đào tạo tốt nhất như trường Havard thì thái độ, nhận thức, văn hóa cũng vẫn còn có hạn chế, đầu ra của nó cũng không phải luôn luôn là sản phẩm tốt. Đó là điều khiến người Mỹ thức tỉnh và hoan nghênh phát biểu: “Các em chẳng có gì đặc biệt cả”. 
Nói như vậy để thấy, những hiện tượng bạn nói ở trên không phải là hệ quả trực tiếp của giáo dục. Chúng là hệ quả của một thứ quan trọng hơn giáo dục, là cha đẻ của giáo dục: VĂN HÓA.
Nạn thực phẩm bẩn, độc hại tràn lan, lấy thịt lợn chết làm mắm tép chưng thịt là một biểu hiện “rực rỡ” về sự thoái hóa đạo đức, thoái hóa văn hóa của con người.
Nhưng điều đáng báo động hơn là, chúng không phải là trạng thái hoang dã mà là trạng thái có giáo dục của tính hoang dã, trạng thái phát triển ổn định và bền vững của trạng thái phi đạo đức của con người.
Con người đang chế tạo ra những sản phẩm phi đạo đức một cách rất có trình độ. Những người không học tốt về hóa rất khó để có thể cho melamine vào sữa.
Phải có trình độ khoa học và năng lực nhất định mới có thể tạo ra trạng thái sữa có melamine, xay thịt trộn mắm tép thơm lừng để ngụy trang thịt xúc vật chết. Chúng ta đang chểnh mảng trong việc giáo dục đạo đức cho nên các hiện tượng vô đạo đức đã lẻn vào đời sống của nhà trường và đời sống của xã hội.
Chúng ta rất đau khổ vì nền kinh tế của chúng ta những năm trước tăng trưởng 7-8% mà năm nay có khi chỉ tăng được 5% thôi, nhưng chúng ta không hề xấu hổ, không đau khổ trước việc chúng ta chế biến thịt súc vật chết để bán cho mọi người. Chúng ta chỉ xấu hổ vì nghèo đi mà chúng ta quên mất xấu hổ vì sự xấu đi về mặt đạo đức. Chuyện đó là chuyện quan trọng hơn tất cả những gì chúng ta bàn ở trên.
Vậy mà cho đến thời điểm này, chưa có một tiếng kêu cứu có chất lượng nhà nước nào, tổ chức nào, đặc biệt là tổ chức giáo dục. Tôi mong các vị lãnh đạo ở các Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch, Bộ Công Thương, Bộ Thông tin và Truyền thông… hãy nghe tiếng kêu cứu này.
PV: - Trong một bài phỏng vấn mới đây, GS Hoàng Tụy cho rằng: “Không thể nào có một nền kinh tế tăng trưởng lành mạnh dựa trên một nền văn hóa suy đồi. Người ta lý giải chuyện đó là sự lệch pha giữa văn hóa và kinh tế”. Ý kiến của một chuyên gia kinh tế như ông như thế nào?
Ông Nguyễn Trần Bạt: Tôi thích câu nói ấy của bác Hoàng Tụy. Tôi khái quát vấn đề của bác Hoàng Tụy lên là: Không thể xây dựng được bất kỳ cái gì tử tế trên cái nền đồi bại của văn hóa.
PV: - Theo cá nhân ông, làm thế nào để khắc phục được vấn đề trên?
Ông Nguyễn Trần Bạt: Câu hỏi đó phải đi thường xuyên với con người, với tư cách là một nỗi niềm của mỗi một con người. Rằng chúng ta đang làm đồi bại một nền văn hóa hay chúng ta là thành viên của một nền văn hóa đồi bại.
Ra khỏi sự đồi bại về văn hóa bằng cách nào? Điều gì là động lực của sự đồi bại hóa của nền văn hóa đến như vậy? Truyền thông có nghĩa vụ phải làm thế nào để ý kiến của GS Hoàng Tụy đã được tôi khái quát hoá lên thành một câu hỏi có mặt trong từng bữa cơm, giấc ngủ, từng nụ hôn của con người.
Tôi không khái quát hóa việc ra khỏi sự đồi bại về văn hoá như thế nào? Vì mỗi người góp phần vào sự đồi bại hóa của nền văn hóa một cách khác nhau, với những “công nghệ” khác nhau. Chúng ta chỉ cần thức tỉnh, rút các yếu tố làm đồi bại nền văn hóa của mình ra khỏi xã hội, tự nhiên xã hội sẽ sạch sẽ.
  • Hoàng Hạnh (Thực hiện)

Wednesday, May 9, 2012

Cụ Hồ, con người và phong cách




Ngô Trần Đức
 
          Sinh thời, trong một lần “tự bạch”, khi trả lời câu hỏi của con gái về  “câu cách ngôn mà cha thích nhất?”, Marx đã chọn câu của Térence - nhà thơ La mã cổ đại: Không có gì thuộc về con người lại xa lạ đối với tôi”.[1] Cũng có thể nói như vậy về Cụ Hồ. Cụ vĩ đại, siêu việt, hơn thường, nhưng Cụ không phải là ông thánh, một vì sao chỉ lấp lánh ở chân trời xa! Cụ là một con người trần thế với tất cả khát vọng về hạnh phúc và niềm vui được sống, được làm người trên thế gian này. Là một con người nhân hậu, giản dị, Cụ gần gũi, thân thiết với tất cả mọi người, không có gì thuộc về con người lại không vang vọng sâu xa trong tâm hồn của Cụ.
          Người Việt chúng ta không có truyền thống “tự bạch” như người phương Tây ở thế kỷ trước, để qua đó có thể bộc bạch công khai tâm hồn mình - những điều yêu ghét, mong mỏi, theo đuổi trong cuộc đời - như Marx trả lời con gái. Nhưng cũng có  lần, một phóng viên của tờ Frères D’Armes (Bạn chiến đấu) đã hỏi Cụ Hồ theo kiểu này:
   -Thưa Chủ tịch, Chủ tịch ghét gì nhất? - Điều ác.
   -Thưa Chủ tịch, Chủ tịch yêu gì nhất?  -Điều thiện.
   -Chủ tịch cầu mong gì nhất? -Nền độc lập của nước tôi và của tất cả các nước trên hoàn cầu.
  -Thưa Chủ tịch, Chủ tịch sợ gì nhất? -Chẳng sợ gì cả. Một người yêu nước không sợ gì hết và nhất thiết không được sợ gì.[2]     
          Số câu hỏi ít, nội dung trả lời ngắn, tuy vậy cũng đã cho ta thấy được điều cốt yếu nhất trong con người Cụ: theo đuổi những giá trị phổ quát, có ý nghĩa toàn nhân loại: yêu điều thiện, ghét điều ác, yêu nước mình đồng thời tôn trọng độc lập của tất cả các nước, đó là một người chân chính, vì vậy không có gì phải sợ và nhất thiết không được sợ gì! Từ điểm xuất phát này, chúng ta có thể từng bước khám phá để hiểu được con người và phong cách Hồ Chí Minh.
 
Một tư duy hài hòa, uyển chuyển, có lý có tình.
          Xem xét tính cách, phẩm chất của một con người cũng như của một vĩ nhân, người ta thường bắt đầu từ xem xét đặc điểm tư duy của họ, xuất phát điểm của tư duy khác nhau sẽ dẫn đến những kết quả khác nhau. Trong đời sống, do địa vị xã hội, lợi ích giai cấp và xu hướng cá nhân, mỗi người thường theo đuổi những giá trị khác nhau. Cái mà anh cho là tốt đẹp, là lý tưởng chưa hẳn đã là tốt đẹp và lý tưởng đối với tôi. Tuy nhiên, bên cạnh cái riêng, cái giai cấp, vẫn tồn tại cái chung, cái nhân loại mà ở thời nào, dân tộc nào cũng đều thừa nhận. Cụ Hồ từng viết: “Tuy phong tục mỗi dân mỗi khác, nhưng có một điều thì dân nào cũng giống nhau: Ấy là dân nào cũng ưa sự lành và ghét sự dữ”[3]. Như vậy, lành - dữ, thiện - ác, chính - tà, tự do - độc lập, nhân ái - hòa bình, dân chủ - bình đẳng,…là những phạm trù chung, có giá trị toàn nhân loại, không ai có thể phủ nhận được.
Đặc điểm nổi bật của tư duy Hồ Chí Minh là Cụ luôn luôn xuất phát từ cái chung, cái nhân loại, từ những chân lý phổ biến, “những lẽ phải không ai chối cãi được”. Để xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc, Cụ thường không mấy đề cập đến địa vị giai cấp, thành phần xuất thân,…của người dân, mà chỉ đưa ra những chuẩn mực chung nhất, như là yêu nước - bán nước, thiện - ác, chính - tà,…Cụ viết: “Trên quả đất có hàng muôn triệu người. Song số người ấy có thể chia làm hai hạng: người thiện và người ác. Trong xã hội, tuy có trăm công, nghìn việc, song những công việc ấy có thể chia làm hai thứ: việc chính và việc tà. Làm việc chính là người thiện. Làm việc là người ác…Trừ bọn Việt gian bán nước, trừ bọn phát xít thực dân, là những ác quỷ mà ta phải kiên quyết đánh đổ, đối với tất cả những người khác thì ta phải yêu quý, kính trọng, giúp đỡ”[4].
Để đàm phán, thuyết phục đối phương đi tới đồng thuận, Cụ Hồ luôn lập luận trên nguyên tắc về tính đồng nhất của nguyên lý. Cụ viết: “Quyền độc lập, tự do, ở nước nào cũng vậy, đều do xương máu của những nghĩa sĩ và đoàn kết của toàn quốc dân mà xây dựng nên. Vậy nên, những người chân chính ham chuộng độc lập, tự do của nước mình thì phải kính trọng độc lập tự do của các dân tộc khác”. Cụ nói với Thủ tướng Pháp G. Bidault (2-7-1946): “Chúng ta đều được kích thích bởi một tinh thần: triết lý đạo Khổng và triết lý phương Tây đều tán dương một nguyên tắc đạo đức: Kỷ sở bất dục, vật thi ư nhân. Tôi tin rằng trong những điều kiện ấy, Hội nghị sắp tới sẽ đi đến những kết quả tốt đẹp[5]. “Các bạn yêu nước Pháp của các bạn và muốn nó độc lập. Các bạn yêu đồng bào của các bạn và muốn họ được tự do… Chúng tôi cũng phải được yêu nước của chúng tôi và muốn nó độc lập chứ! Chúng tôi cũng phải được phép yêu đồng bào chúng tôi và muốn họ được tự do chứ! Cái mà các bạn coi là lý tưởng, cũng phải là lý tưởng của chúng tôi[6].
Những chân lý này không có biên giới, nó là lương tri của loài người, không bị chi phối bởi một chủ thuyết nào cả. Việt Nam chiến đấu là để bảo vệ và góp phần thức tỉnh lương tri ấy.
Tháng 5-1947, Paul Mus, đại diện của E. Bolaert, lên Thái Nguyên gặp Cụ Hồ, đưa ra 3 điều kiện để ngưng chiến: 1.đòi ta phải nộp hết vũ khí cho họ ; 2. đòi quyền cho họ được tự do đi lại trên khắp nước Việt Nam; 3. đòi trao trả cho họ những người lính Pháp phản chiến đã gia nhập hàng ngũ của chúng ta. Thực chất, đó là một tối hậu thư đòi chúng ta phải đầu hàng! Cụ Hồ hỏi lại P.Mus: “Các bạn là những người đã chiến đấu oanh liệt để bảo vệ Tổ quốc, các bạn hãy đứng vào địa vị chúng tôi, các bạn có thể nào chịu nhận những điều kiện như thế không?”[7] Paul Mus phải thừa nhận rằng: nếu ở vào địa vị mình, ông cũng không thể chấp nhận.
          Một đặc điểm thứ hai của tư duy Hồ Chí Minh là Cụ rất dị ứng với mọi biểu hiện của lối suy nghĩ cạn hẹp, phiến diện, một chiều. Có một thời, thế hệ chúng tôi không tránh khỏi mang những nhược điểm của lối tư duy ấy: cách mạng là đoạn tuyệt với mọi cái cũ, chủ nghĩa xã hội hơn hẳn chủ nghĩa tư bản về mọi mặt, con người mới hơn hẳn con người cũ, v.v… Cách suy nghĩ đó một thời đã đi vào thơ ca, tiểu thuyết, đến mức nhiều người thành thật tin là như vậy:
                                          Thuở Anh chưa ra đời,
                                          Trái đất còn nức nở,
                                         Nhân loại chửa thành người,
                                        Đêm ngàn năm man rợ. 
                                       (Bài ca Tháng Mười)
           Khi ấy đâu có ai dám thắc mắc: chẳng nhẽ cha ông ta với mấy nghìn năm văn hiến, cũng đều là man rợ cả sao? Sau này, khi trưởng thành hơn, một nhà thơ khác đã “phản tỉnh” về hiện tượng tư duy “ngây thơ, ngờ nghệch” của một thời, khi cứ chân thành nghĩ rằng:            
                             Đồng hồ Liên Xô tốt hơn đồng hồ Thụy Sĩ,
                            Trăng Trung Quốc tròn hơn trăng nước Mỹ? [8]
          Tất nhiên, lối suy nghĩ “ấu trĩ tả khuynh” này hoàn toàn xa lạ với phong cách tư duy của Cụ Hồ. Theo Cụ, lịch sử là một dòng chảy không ngừng, cách mạng là đột biến trong liên tục, cái mới sinh ra từ cái cũ, có khi lật ngược cái cũ, nhưng không vứt bỏ những yếu tố đúng đắn, hợp lý của cái cũ; chủ nghĩa xã hội không phủ định sạch trơn mà kế thừa và phát huy tất cả những giá trị văn hóa-văn minh của nhân loại từ các đời trước để lại. Không phải cứ cách mạng thành công rồi thì con người bỗng tự nhiên trở nên “thiên thần” và người đảng viên cộng sản được coi là những người “có tính cách đặc biệt riêng, được cấu tạo bằng một chất liệu đặc biệt riêng”- như một lãnh tụ của một Đảng cộng sản trước đây đã từng nói.[9]
          Cụ Hồ chống lại thói “kiêu ngạo cộng sản” ấy. Cụ nói: “Đảng viên chúng ta là những người rất tầm thường, vì chúng ta là con của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động, chúng ta chỉ biết trung thành với giai cấp vô sản, quyết tâm đấu tranh cho nhân dân. Thế thôi. Chính vì chúng ta rất tầm thường nên Đảng ta rất vĩ đại. Ngoài lợi ích của Tổ quốc, của giai cấp, của dân tộc, Đảng ta không có lợi ích nào khác”[10].
Tất nhiên, người cộng sản Việt Nam có quyền tự hào chính đáng vì họ đã đi tiên phong trong cuộc đấu tranh giải phóng lâu dài và gian khổ của dân tộc, bất chấp tù lao, máy chém, chiến trường. Nhưng người cộng sản cũng là con người, nên có ưu, có khuyết, có tốt, có xấu. Cụ nói: “Đảng ta không phải trên trời sa xuống. Nó ở trong xã hội mà ra…Cũng như những người hàng ngày lội bùn mà trên mình họ có hơi bùn, có vết bùn…Cần phải tắm rửa lâu mới sạch”.[11]… “Quần chúng chỉ yêu mến những người có tư cách đạo đức. Muốn hướng dẫn nhân dân, mình phải làm mực thước cho người ta bắt chước…Muốn làm cách mạng, phải cải cách tính nết mình trước tiên”[12]. Như vậy, theo Cụ Hồ, “tính cách đặc biệt riêng” nếu có của người cộng sản, chính là phải có ý thức tự tu dưỡng, tự rèn luyện và nêu gương suốt đời.
Chính trị là lĩnh vực đầy thiên kiến, nên dễ phiến diện, cực đoan. Điều này hiếm thấy ở Cụ Hồ. Một nhà báo Mỹ của tờ Newsweek phỏng vấn Hồ Chí Minh về hệ thống một đảng có phải là tốt hay không, Cụ trả lời: “Đó là điều tốt, nếu đảng tốt. Nếu không, đó là không tốt”.[13]Cả trong cách nhìn về ông vua sáng lập triều Nguyễn cũng vậy, Cụ rất khách quan. Hãy nghe Cụ nói về vua Gia Long trong bài “ Lời than vãn của bà Trưng Trắc”: Với một tấm can trường vô song và một đức độ băng tuyết, giống như vàng mười óng ánh muôn tia đã qua ngàn lần thử lửa, ông tổ mi là Gia Long, tôn quý và tài ba bội phần, đã để lại, sau những cuộc thăng trầm và đau khổ không sao kể xiết, một đất nước giàu có, một nhân dân độc lập, một dân tộc được những kẻ mạnh kính nể, những kẻ yếu yêu mến, một tương lai đầy sức sống và đầy triển vọng”.[14]
          Theo Cụ Hồ, công việc chúng ta đang làm hôm nay - giải phóng dân tộc, xây dựng xã hội mới, bảo vệ từng tấc núi, tấc biển của Tổ quốc, không phải là cái gì đặc biệt, nó chỉ là sự nối tiếp sự nghiệp cha ông đã mở ra từ mấy nghìn năm trước. Cụ nói: Các vua Hùng đã có công dựng nước, Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước”. “Cuộc chiến đấu hiện thời của chúng ta chỉ là kết tinh của cuộc trường kỳ đề kháng mà ông cha, anh em chúng ta đã tiếp tục trong tám mươi năm Pháp thuộc.”[15] Bản Tuyên ngôn Độc lập, theo Cụ, không phải chỉ là sự kế thừa các bản “Yêu sách” và “Chương trình Việt Minh” do Cụ Hồ đã viết vào năm 1919 và 1941 mà “còn là kết quả của những bản tuyên ngôn khác của tiền bối như các cụ Thủ khoa Huân, Phan Đình Phùng, Hoàng Hoa Thám, Phan Bội Châu và… của bao nhiêu sách báo, truyền đơn bí mật viết bằng máu và nước mắt của những nhà yêu nước từ hơn tám mươi năm nay”. Nó “là hoa, là quả của bao nhiêu máu đã đổ và bao nhiêu tính mạng đã hy sinh,…là kết quả của bao nhiêu hy vọng, gắng sức và tin tưởng của hơn hai mươi triệu nhân dân Việt Nam[16], kể cả những ông vua yêu nước. Rõ ràng là không một chút biệt phái, không coi đó là công lao của riêng một bộ phận nào.
Tháng 12-1923, cuối buổi nói chuyện với O. Mandelshtam ở Maxkva, Nguyễn Ái Quốc đã không quên nhắc đến ông hoàng Duy Tân: Ở bên nước “chúng tôi còn có một cuộc “nổi dậy” nữa, do vua An Nam trẻ tuổi Duy Tân phát động, chống lại việc đưa những người nông dân của chúng tôi đến chiến trường của Pháp. Vua Duy Tân đã chạy, bây giờ ông ấy đang sống lưu vong. Hãy kể về ông ấy  nữa”.[17]
 Trong tư duy cuả Cụ Hồ luôn có sự kết hợp giưã dân và nước, giai cấp và dân tộc một cách hàì hoà, không chút thiên lệch. Trong một dự thảo kế hoạch phát động thi đua yêu nước trong kháng chiến chống Pháp của Ban Thi đua TƯ gửi lên Cụ, người viết có đề ra một khâủ hiệu “Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để chiến thắng”. Cụ gạch đi và bảo: không được chỉ nhìn thấy một phía, “ích nước nhưng còn phải lợi dân nữa”, rôì Cụ thay bằng: mục đích thi đua là “diệt giặc đói, diệt giặc dốt, diệt giặc ngoại xâm”. Sau này, thi đua đã bị biến dạng vì người ta chỉ cốt sao có nhiều thành tích để báo cáo lên trên mà quên mất lợi ích thiết thân cuả ngườ dân.
          Vào cuối cuộc kháng chiến chống Pháp, khi cuộc cách mạng ruộng đất bắt đầu được phát động, vấn đề thành phần xuất thân, quan hệ gia đình được đặt ra. Nhiều nhân sĩ, trí thức và không ít cán bộ, đảng viên có bố mẹ, họ hàng là địa chủ (hoặc bị quy là địa chủ) bắt đầu lo lắng, nhiều người hoang mang,…Hiểu được tâm trạng này, tại nhiều Hội nghị, Cụ Hồ đã đả thông hoặc viết bài đăng báo: “Trước khi ra đời, người ta không thể lựa chọn sinh ra ở giai cấp nào, gia đình nào. Thành phần giai cấp có ảnh hưởng nhất định đến tư tưởng con người, nhưng không phải là ảnh hưởng quyết định, không khắc phục được…Điều quan trọng vẫn là do bản thân mỗi người cán bộ, đảng viên,…nếu có chí khí kiên cường, tư tưởng vững chắc, lập trường dứt khoát, quyết tâm phụng sự cách mạng, phục vụ nhân dân, thật thà thi hành chủ trương, chính sách của Đảng và Chính phủ, thì nhất định đánh tan được ảnh hưởng ấy và vẫn được Đảng, Chính phủ và nhân dân tin cậy”.[18]
          Rồi Cụ đưa ra dẫn chứng: nước ta cũng như các nước khác, vẫn có những người là đại địa chủ mà làm cách mạng, hồi bí mật có bao nhiêu tiền đem giúp cho cách mạng hết, cam chịu tù đày. Trước kia, K. Marx là con nhà quý phái, F. Engels là con nhà tư bản, nhưng hai ông đã hiến dâng đời mình cho cách mạng, trở thành những người sáng lập chủ nghĩa cộng sản. Hoặc như Bành Bái, người đầu tiên tổ chức và lãnh đạo nông dân tỉnh Quảng Đông kịch liệt chống lại giai cấp địa chủ, vốn xuất thân là con nhà đại địa chủ, đại phong kiến. Họ như những đóa hoa sen, gốc rễ từ bùn đen, vươn lên mặt nước trong trẻo, hấp thụ ánh sáng mặt trời, lại trở nên tươi đẹp, ngát hương. Con người ta cũng như vậy, thành phần giai cấp xuất thân không thể ảnh hưởng xấu đến những người thật thà cách mạng.
          Tiếc rằng những ý kiến chân tình, sáng suốt ấy đã không được cấp dưới quán triệt trong thực thi chính sách, để cho “chủ nghĩa thành phần” khuynh loát, gây ra bao sai lầm đáng tiếc. Cách thuyết phục của Marx-Lénine là thuyết phục bằng lý luận, theo con đường của văn hóa phương Tây đã hình thành ngay từ thời Aristote. Hồ Chí Minh đi theo con đường của các triết gia phương Đông, kết hợp lý trí với tình cảm, tạo được sự thông cảm, giao cảm với đối tượng. Marx nói: giai cấp vô sản đứng lên làm cách mạng, nếu mất, chỉ mất xiềng xích, còn được, được cả thế giới! Còn Hồ Chí Minh lại hiểu: các nhân sĩ, trí thức, viên chức cao cấp của chế độ cũ,…đi với cách mạng thì họ mất rất nhiều: mất địa vị, danh vọng, tài sản, sự an nhàn, hưởng thụ, có khi cũng phải hy sinh cả tính mạng (như các vị Nguyễn Văn Tố, Đặng Văn Ngữ, Phạm Ngọc Thạch và nhiều người khác). Cách mạng là sự nghiệp lâu dài, gian khổ, nếu đối xử kém chân tình, chu đáo, với mặc cảm sẵn có, họ rất dễ xao lòng, mà cách mạng lại đang rất cần đến uy tín, danh vọng và tài năng của họ. Ta mới hiểu vì sao Cụ Hồ lại có sự quan tâm đối với trí thức cũ một cách ân cần, đầy ưu ái đến như vậy.
          Một đặc điểm nữa rất dễ thấy ở Hồ Chí Minh là phong cách hài hoà, nhuần nhuyễn giữa văn hoá Đông - Tây: vừa thấu hiểu Nho- Phật- Lão phương Đông, vừa am hiểu sâu sắc văn hoá Âu Tây, nhưng luôn luôn giữ vững, yêu quý và tự hào về bản sắc văn hoá Việt Nam. Cụ Hoàng Đạo Thuý đã khái quát được phong cách đặc sắc ấy trong một đoạn hồi ký sau đây:
          “Mấy nhà nho cũ thấy Cụ ngồi cạnh cái hòm nhỏ như cái tráp, hí hoáy viết, bảo rằng Cụ là một ông đồ Nghệ. Đeo kính vào nữa thì rõ ràng là một ông đốc học. Những người đi nước ngoài về, hay quen đọc sách Tây, bảo Cụ cực kỳ văn minh, như người châu Âu lịch sự ấy. Nghệ sĩ nghe Cụ nói về một tác phẩm, thấy ngay rằng Cụ là một đồng sự của mình. Cụ tiếp cụ Võ Liêm Sơn, tặng quạt, làm thơ tiễn, thì Cụ là một nhà đạo đức văn chương bậc thầy. Léo Figuère nghe Cụ nói chuyện, cảm như là đến nhà một ông bác ở bên bờ sông Seine. Tay nâng chén rượu chúc mừng, rất trang trọng, mà vung cây đũa đánh nhịp cũng vô cùng là tự nhiên”.[19] Tuỳ theo mỗi đối tượng tiếp xúc mà Cụ Hồ có cách ứng xử thích hợp.
          Cụ Hoàng kể: Năm 1951, cụ được tham dự một lớp học chính trị. Chiều hôm đó, cụ đi sớm, qua một cánh đồng để được hưởng một chút nắng, tay xách theo một cái đèn để tối còn soi đường về. Bỗng nghe phía sau có tiếng hỏi: “Ông cụ đi tìm ai thế?”. Đúng là Cụ Chủ tịch rồi! Không ngờ Cụ đến thăm lớp học, mà cũng đi đường này. Tôi nghĩ ngay rằng: thấy tôi giữa ban ngày ban mặt mà lại xách một cái đèn nên Cụ Chủ tịch mới mượn một điển tích trong triết học cổ đại Hy Lạp để hỏi đùa tôi. Xưa nhà triết học Diogène thường giữa ban ngày mà đốt đèn đi ra đường, thấy lạ, có người hỏi, ông bảo “để đi tìm một con người”! Tôi bèn thưa: “Thưa Cụ, may hơn Diogène, người ấy tôi đã tìm thấy rồi!”.
Đúng là một cuộc đối thoại hóm hỉnh mà thâm thuý giữa hai trí thức Tây học!
Người ta cũng thấy trong Cụ Hồ có sự hài hoà giữa một ông Khổng và một ông Lão, một nhập thế, một xuất thế mà vẫn chung sống được với nhau. Xuất  thân trong một gia đình khoa bảng, chàng thanh niên Nguyễn Tất Thành hăm hở vào đời với lý tưởng “phò đời. giúp nước”của Nho giáo và không  phải nhà nho nào đi theo cách mạng cũng thực hiện được lý  tưởng “tu thân, trị quốc” như Cụ. Nhưng không như mọi  nho sĩ khác: học hành, đi thi để thực hiện mong ước thường tình “nhất tử thụ quan, toàn gia tề thiên lộc” (một người làm quan, cả họ được nhờ). Còn Cụ Hồ thì ngay sau Cách mạng thành công, trả lời các nhà báo nước ngoài năm 1946, Cụ đã nói: “Tôi tuyệt nhiên không ham muốn công danh phú quý chút nào…Bao giờ đồng bào cho tôi lui, thì tôi rất vui lòng lui…Riêng phần tôi thì làm một cái nhà nho nhỏ, nơi có non xanh nước biếc để câu cá, trồng hoa, sớm chiều làm  bạn với các cụ già hái củi, em trẻ chăn trâu, không dính líu gì vào  vòng danh lợi”.[20]
Cũng theo hồi ký của cụ Hoàng, sau bữa cơm chiều ở chiến khu Tân Trào, các nhân viên CP thường ra ngồi nghỉ dọc bên Ngòi Thia, riêng Cụ Hoàng tìm đến một chỗ có nước chảy như thác. Một lát sau, Cụ Hồ cũng tìm đến ngồi bên, chỉ dòng Thia, nói với cụ Hoàng: “Tôi yêu chỗ này lắm!”, rồi hỏi:
- Cụ hay đi khắp đất nước, thế có thấy chỗ nào phong cảnh đẹp mà đất tốt không?
- Cụ định làm ruộng ư? Ai cho Cụ nghỉ đấy!
- Đến một lúc nào rồi cũng phải nghỉ chứ?
Tưởng cũng chỉ là một ước ao thôi, ai ngờ sau Hiệp định Genève, trên đường từ Việt Bắc về xuôi, nghỉ lại nơi một đồi thông xanh mướt dưới chân núi Ba Vì, giáp với bờ sông Đà cát trắng, Cụ đã tự tìm được cho mình một vùng “có non xanh, nước biếc” để sau này làm chỗ nghỉ dưỡng, “câu cá trồng hoa” và thực lòng cũng muốn được gửi hồn cốt tại vùng sông núi thanh tú vốn mang màu sắc huyền thoại này. Địa điểm đó nay đã trở thành một di tích lịch sử, một địa chỉ văn hoá, đang thu hút nhiều du khách đến thăm. Ngắm phong cảnh hữu tình, ai cũng thầm khen Cụ Hồ quả là có con mắt và tâm hồn của một bậc thi hoạ phương Đông.
          Vua Tự Đức có một nhận xét: “Lão giáo được một cái đúng là tôn tự nhiên”. Cụ Hồ chịu ảnh hưởng của triết lý “theo tự nhiên” này của Lão Tử: luôn chan hoà với thiên nhiên, không thích sống trong cảnh “gác tía, lầu son”, thích ở nhà sàn lộng gió bốn phương, phục sức giản dị, ăn uống đạm bạc. Những người được sống bên Cụ đều cho biết: chưa bao giờ thấy Cụ phàn nàn về thời tiết, mưa không bực, nắng không than, bình thản trước mọi diễn biến của đất trời, dung mạo lúc nào cũng vui vẻ, trán không nhăn, mày không nhíu, mát mẻ như mùa thu, ấm áp như mùa xuân, cứ thuận theo tự nhiên mà sống.
          Trong thơ của Cụ có trăng có hoa, có mai vàng, tuyết trắng, chim rừng về tổ, mây lượn tầng không, có hoàng hôn, nắng sớm,…Tất cả đều được nhân cách hoá, giao hoà với con người: Tiếng suối trong như tiếng hát xa, Trăng vào cửa sổ đòi thơ, Gối khuya ngon giấc bên song trăng nhòm, Trần mà như thế khác gì tiên,…Nhưng vẫn có điều khác: là tiên mà không thoát tục, vẫn luôn gắn với dân, với nước, với cuộc đấu tranh cho độc lập dân tộc và hạnh phúc của nhân dân; vẫn theo đuổi lý tưởng nhân văn cao cả, theo triết lý sống trong sạch, cao thượng, không màng vinh hoa phú quý, coi tiền tài, quyền lực, danh vị như áng phù vân.
          Khi bước vào tuổi 70, sức khoẻ kém đi, tuy vẫn còn rất minh mẫn và đang ở đỉnh cao của quyền lực, Cụ đã chủ động từng bước chuyển giao nhiệm vụ cho lớp kế cận đã được Cụ đào tạo và chuẩn bị chu đáo. Tuy danh nghĩa vẫn là Chủ tịch đảng, Chủ tịch nước nhưng không trực tiếp điều hành nữa mà thường để Bộ Chính trị bàn bạc tập thể và quyết định, Cụ chỉ góp ý, nhắc nhở và điều chỉnh khi cần thiết.
          Không tham quyền cố vị, biết chuyển giao quyền lực đúng lúc, không bao biện, làm thay, nhưng Cụ không cho phép mình nghỉ ngơi, vẫn hoạt động không mệt mỏi cho dân, cho nước, nhưng đã siêu thoát khỏi vòng danh lợi. Giữ nguyên nếp sống giản dị, vẫn áo nâu, túi vải, dép lốp, Cụ dành thời gian đi xuống với dân, biểu dương người tốt, việc tốt, bàn chuyện trồng cây gây rừng, săn sóc bữa ăn của công nhân, xuống ruộng tát nước với bà con nông dân, đón tiếp các chiến sĩ từ mặt trận miền Nam ra thăm, tặng lụa cho cụ già, vui tết Trung thu với các cháu nhỏ,…Phơ phơ tóc bạc, vóc hạc mình gầy, Cụ hiện ra trong tâm trí của người dân không phải như một vị Chủ tịch nước mà như một “ông tiên” trong truyện cổ tích.
Từ thực tiễn nghiên cứu và khám phá về Hồ Chí Minh, nhà sử học Pháp G. Boudarel đã sớm nhận ra ảnh hưởng của Lão Tử trong nhân cách, đạo đức Cụ Hồ, nên đã mượn một câu trong Đạo đức kinh làm kết luận cho bài viết về chân dung nhà chính trị châu Á này: “Người tướng giỏi thì không dùng vũ lực, người chiến đấu giỏi thì không nổi giận, người khéo thắng địch thì không cần giao tranh mà vẫn thắng, người khéo dùng người thì đặt mình dưới người ta. Đó là cái đức của sự không tranh”.[21]
 
Một tấm lòng nhân ái, khoan dung, đại lượng
          Cụ Hồ nói: “Dân tộc ta là một dân tộc giàu lòng đồng tình, bác ái” và chính Cụ là tinh hoa của tinh thần khoan dung, nhân ái Việt Nam. Khoan dung, nhân ái Hồ Chí Minh biểu hiện ở lòng yêu thương sâu sắc đối với con người, ở cái nhin rộng lượng đối với những giá trị khác biệt với mình, ở sự tôn trọng niềm tin của người khác, không áp đặt quan điểm của mình lên người khác, xa lạ với mọi thái độ kỳ thị, cuồng tín, giáo điều. Khoan dung, nhân ái Hồ Chí Minh được xây dựng trên nguyên tắc công lý, chính nghĩa, tự do, bình đẳng, nên cũng không chấp nhận thỏa hiệp vô nguyên tắc với tội ác và bất công, với tất cả những gì chà đạp lên “quyền sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc” của mỗi con người và của các dân tộc.
Đối với thực dân xâm lược, khi họ đã dùng bạo lực của kẻ mạnh để xâm lược, đàn áp kẻ yếu thì không có cách nào khác là phải dùng bạo lực cách mạng của quần chúng để giành lại độc lập và bảo vệ đất nước. Làm sao có thể “xin giặc rủ lòng thương” mà có được độc lập? Đó là chân lý được đúc kết từ mấy nghìn năm dựng nước và giữ nước của cha ông truyền lại, từ các cuộc khởi nghĩa của Bà Trưng, Bà Triệu, Lê Lợi, Trương Định, Nguyễn Trung Trực, Phan Đình Phùng, Hoàng Hoa Thám, Phan Bội Châu, Nguyễn Thái Học,… chứ đâu phải vay mượn từ học thuyết ngoại lai nào?
Do thiết tha với hòa bình, chúng ta đã nhân nhượng. Nhưng ta càng nhân nhượng, kẻ thù càng lấn tới, buộc ta phải cầm súng đứng lên tự vệ theo tinh thần “thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, không chịu làm nô lệ”. Tuy nhiên, trong chiến đấu, Cụ Hồ luôn giáo dục nhân dân ta biết phân biệt bọn thực dân xâm lược Pháp với nhân dân Pháp, giữa bọn thực dân phản động Pháp với những người còn có lương tri trong hàng ngũ của họ, nhằm chĩa mũi nhọn vào bọn đầu sỏ hiếu chiến nhất. Cụ đã làm hết sức mình để tránh không gây ra mối hận thù đối với dân tộc Pháp - một dân tộc mà Cụ luôn yêu mến và kính trọng.
          Trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc, việc dụng binh cũng là việc nhân nghĩa, nên Cụ đã tìm mọi cách để hạn chế đến mức thấp nhất những thương vong trên chiến trường, cho cả quân ta và quân địch. Cụ nói: “Trước lòng bác ái, thì máu Pháp hay máu Việt đều là máu, người Pháp hay người Việt đều là người”. Để chiến thắng, ta phải từng bước tiêu hao sinh lực địch, nhưng mục tiêu của ta là đánh bại, đánh sập ý chí xâm lược của họ, “đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào” chứ không coi việc đánh tiêu diệt hoàn toàn quân địch trên chiến trường là biện pháp duy nhất dể kết thúc chiến tranh. Ta hiểu vì sao Cụ không tán thành cách diễn đạt của một nhà thơ khi gọi trận đánh chết nhiều người là “một trận đánh đẹp”. Cụ từng nói: “Đánh mà thắng là giỏi, nhưng không đánh mà thắng lại càng giỏi hơn”. Theo tư tưởng binh pháp cha ông, Cụ chủ trương “đánh vào lòng người là hơn hết, đánh vào thành trì là thứ hai”, vì vậy Cụ rất coi trọng binh vận và địch vận, coi “khéo ngụy vận cũng là một cách tiêu diệt sinh lực địch”.
          Ngay sau Cách mạng tháng Tám, lợi dụng tình hình còn rối ren, tù trưởng dân tộc Mèo Vương Chí Sình ở Hà Giang nổi lên chống ta, giết hại một số cán bộ và người dân. Quân dân ta chuẩn bị tấn công vào sào huyệt của “vua Mèo”. Được tin, Cụ Hồ chỉ thị phải ngừng ngay lại, sau đó đích thân gửi thư mời Vương Chí Sình về Hà Nội, tiếp đãi tử tế, rồi kết nghĩa anh em, giới thiệu họ Vương ứng cử vào Quốc Hội khóa I. Kết quả là dẹp yên được cuộc nổi loạn mà không mất một viên đạn, một giọt máu nào.
          Ngày 10-6-1947, được tin tướng Raoul Salan - người đã từng tháp tùng Chủ tịch Hồ Chí Minh trong chuyến sang thăm nước Pháp năm 1946 - vừa được cử làm Tổng chỉ huy quân đội Pháp ở Đông Dương, thay cho tướng J.Valluy, Cụ Hồ liền gửi cho R. Salan một bức thư, trong đó có đoạn viết:
          “Chúng ta từng là những người bạn tốt…Nhưng hoàn cảnh ngoài ý muốn đã biến chúng ta thành hai kẻ đối địch. Điều đó thật đáng tiếc!...Về phần tôi, bổn phận thiêng liêng của một người dân yêu nước buộc tôi phải chiến đấu vì Tổ quốc và đồng bào mình. Còn về phía Ngài, trách nhiệm quân nhân cũng buộc Ngài phải làm những điều mà trái tim Ngài không muốn…Vì chúng ta buộc phải chiến đấu, thì các ngài hãy tỏ ra là những chiến binh hào hiệp, những đối thủ quân tử, trong khi chờ đợi chúng ta lại trở thành bạn hữu của nhau…Vì tình yêu thương con người, lòng nhân đạo và nhân danh tình bạn của chúng ta, tôi yêu cầu Ngài nghiêm cấm binh lính Pháp sát hại dân lành, hãm hiếp phụ nữ, đốt phá làng mạc, phá hủy nhà thờ, đền miếu như họ vẫn làm từ trước tới nay.
          Tôi bảo đảm với Ngài rằng binh lính và thường dân Pháp ở chỗ chúng tôi được đối xử rất tử tế. Tôi hy vọng người của chúng tôi trong tay các ngài cũng được đối xử như vậy”[22].
          Có lẽ, trên thế giới, hiếm có một bức thư nào gửi cho tướng giặc trước trận đánh lại được viết bằng một ngôn luận hòa ái, lịch thiệp, cao thượng và chính trực đến như vậy. Từ bạn hữu, buộc phải thành địch thủ, thì hãy chiến đấu một cách hào hiệp và quân tử, để sau chiến đấu sẽ trở lại là những người bạn. Đó mới thực sự là cuộc chiến đấu của những hiệp sĩ chân chính, vì những mục tiêu cao cả chứ không vì hận thù dân tộc hay cá nhân.
          Về phần mình, Cụ Hồ đã luôn nhắc nhở đồng bào và chiến sĩ ta cần nêu cao lý tưởng chính nghĩa, nhân đạo, hòa bình, phải có sự đối xử khoan hồng với tù binh và kiều dân Pháp, để “làm cho thế giới biết rằng ta là một dân tộc văn minh, văn minh hơn bọn đi giết người, cướp nước[23]. Một lần, đến thăm trại tù binh sau Chiến dịch Biên giới, thấy một đại úy quân y Pháp ở trần, đang run lên vì cái lạnh của núi rừng Việt Bắc, Cụ đã cới chiếc áo ngoài đang mặc, trao cho anh ta. Tinh thần nhân đạo của Cụ Hồ có sức cảm hóa sâu sắc, đã có không ít sĩ quan và binh lính Pháp phản chiến, bỏ ngũ hoặc chạy sang chiến đấu dưới ngọn cờ đại nghĩa của Hồ Chí Minh.
 Đối với nhân dân ta, Cụ Hồ khuyên phải đoàn kết chặt chẽ và rộng rãi: “Năm ngón tay cũng có ngón vắn, ngón dài…Trong mấy triệu người cũng có người thế này, thế khác, nhưng thế này hay thế khác đều dòng dõi của tổ tiên ta…Ta phải nhận rằng đã là con Lạc, cháu Hồng thì ai cũng có ít hay nhiều lòng ái quốc…Đối với những đồng bào lạc lối, lầm đường, ta phải dùng tình thân ái mà cảm hóa họ”[24].Để làm thất bại mọi âm mưu chia rẽ của kẻ thù, Cụ Hồ đã  thu phục và cảm hóa được nhiều nhân sĩ, trí thức, quan lại cao cấp của chế độ cũ tham gia chính quyền mới, như cựu Khâm sai đại thần Phan Kế Toại, Thượng thư Bùi Bằng Đoàn, Bộ trưởng Thanh niên Phan Anh, Đốc lý Hà Nội Trần Văn Lai,… và nhiều người khác. Được tin ông Trần Trọng Kim - nguyên Thủ tướng Chính phủ bù nhìn do Nhật lập nên ngày 17-4- 1945, vừa từ Huế ra Hà Nội, Cụ Hồ liền cử ông Hoàng Minh Giám đi tìm gặp, tiếc rằng khi tìm được đến nơi thì họ Trần đã cùng với gia đình vừa rời bỏ ra nước ngoài.
Tưởng cũng cần nhắc lại rằng các cuộc Cách mạng dân chủ tư sản Anh, Pháp, Nga nổ ra ở châu Âu các thế kỷ trước, vua và hoàng hậu cùng nhiều người có vai vế trong hoàng tộc đã không thoát khỏi số phận lên đoạn đầu đài! Riêng cuộc cách mạng dân chủ ở Việt Nam, cựu hoàng Bảo Đại lại được Cụ Hồ mời ra Hà Nội làm Cố vấn tối cao cho Chính phủ. Ngày 5-9-1945, vừa tiếp Bảo Đại đến chào buổi sáng, ngay chiều hôm đó, Cụ Hồ đã đến thăm ông Cố vấn tại tư dinh ở 51 đường Gambetta. Hai con người, một cụ già cách mạng gày gò, sương gió, khoác tay một ông hoàng còn trẻ, đày đặn, phương phi cùng đi dạo, nói chuyện trong sân, tạo nên một hình ảnh tương phản mà đoàn kết, hòa hợp dân tộc hiếm có trong cách mạng. Sau một thời gian ở Hà Nội, Bảo Đại viết thư về cho mẹ, khoe: “Cụ Hồ tốt lắm! Con ra đây được Cụ thương lắm! Cụ thương như con! Ả cứ yên tâm. Không phải lo chi cho con cả”[25].
Ngày 16-3-1946, Cố vấn Vĩnh Thụy tham gia phái đoàn thân thiện của Chính phủ Việt Nam thăm Trùng Khánh. Kết thúc chuyến đi, Bảo Đại tuyên bố: tôi ở lại đi du lịch, không về nước. Cụ Hồ đã biết trước ý định ấy của ông Cố vấn, nhưng vẫn tỏ ý lấy làm tiếc về sự lựa chọn của Bảo Đại. Từ cuối 1946 đến đầu 1948, Cụ Hồ đã có vài lần cải tổ Chính phủ, nhưng trong danh sách Chính phủ mới, các bộ trưởng là thành viên cũ của Việt quốc, Việt cách không bỏ chạy theo quân Tưởng, như Chu Bá Phượng, Bồ Xuân Luật, vẫn được Cụ Hồ giữ lại, kể cả ông Cố vấn Vĩnh Thụy, vói chú thích bên cạnh: “Đang ở nước ngoài vì việc riêng”! Không muốn nhịp cầu bị cắt, Cụ Hồ đã nhiều lần thuyết phục Hội đồng Chính phủ vẫn cứ gửi cho Bảo Đại một số tiền, như là phụ cấp cho ông Cố vấn đang đi công tác! Theo ông Phạm Khắc Hòe kể lại, ông Phạm Ngọc Thạch và ông đã từng được cử mang vàng và ngoại tệ sang cho Bảo Đại chi tiêu. Có lẽ do đối xử quá tốt của Cụ Hồ nên Bảo Đại đã ngập ngừng nhiều năm, đến cuối 1948 mới nhận lời Bolaert ra làm con bài cho Pháp.
Ba mươi lăm năm sau, khi đã thất thế, phải sống lưu vong ở nước ngoài, được hỏi: ông có ân hận gì không khi nhận lời ra làm cố vấn cho Chính phủ Cụ Hồ, Bảo Đại trả lời: “Không có ân hận gì cả về quyết định này, bởi lúc đó chẳng có ai, chẳng có lực lượng nào đủ sức làm cho nước Việt Nam độc lập, vinh hiển, ngoài lực lượng của Cụ Hồ”[26].
Cũng thời gian đó, vào cuối năm 1945, Ngô Đình Diệm bị quân dân ta bắt ở nam Trung bộ, giải ra Hà Nội. Biết việc này, với tư cách Chủ tịch Chính phủ, Cụ Hồ quyết định trả lại tự do cho ông ta. Ngày 15-1-1946, Cụ tiếp riêng Ngô Đình Diệm tại Bắc bộ phủ, thuyết phục ông ta đi với nhân dân, tham gia vào việc nước, nhưng ông Diệm từ chối, tuyên bố: sẽ vẫn tiếp tục chống Pháp, nhưng không thể đi với Việt Minh! Nhiều cán bộ giúp việc quanh Cụ  không đồng tình, cho ông Diệm là người thân Nhật, rất nguy hiểm. Cụ Hồ đáp: Nếu ông ta thân Nhật, thì Nhật đã tan tành rồi, còn chỗ nào mà thân nữa! Còn ông ta nói vẫn chống Pháp, nhưng không đi với Việt Minh, thì cứ thả ông ta ra để ông ấy chống Pháp theo kiểu của ông ấy!
Cuộc tiếp kiến đã để lại cho ông Diệm một ấn tượng sâu sắc. Có lẽ vì vậy mà con người chống cộng cực đoan này chưa một lần nào có lời lẽ thất lễ với Chủ tịch Hồ Chí Minh. Sau này, trong một cuộc trò chuyện thân mật với anh Hai Nhạ tại Dinh Gia Long, ông Diệm vẫn nhớ lại hình ảnh mảnh dẻ, giản dị, phong sương của Cụ Hồ trong buổi tiếp: Cụ mặc quần soóc, chân đi dép cao su trắng, với điếu thuốc lá trên môi, nhưng lời nói và cử chỉ thì rất mực lịch thiệp. Ông Diệm có thốt ra với Vũ Ngọc Nhạ một câu: “Cụ Hồ là bậc đại nghĩa, còn qua là người tiểu khí. Nhưng nếu qua nhận lời cộng  tác với cụ Hồ thì qua biết ăn nói thế nào với dòng họ Ngô về cái chết của anh tôi và cháu tôi bởi tay Việt Minh”?[27] Cũng có thể tin đó là một lời nói thực lòng.
          Đối với các tôn giáo, Cụ Hồ thành thật tôn trọng đức tin của người có đạo, khẳng định lẽ sống cao đẹp, những giá trị đạo đức- nhân văn của các vị sáng lập, không hề bài bác, phủ định mà biết tìm ra cái chung giữa lý tưởng của các tôn giáo với mục tiêu giải phóng dân tộc, mưu cầu hạnh phúc cho nhân dân mà chúng ta đang theo đuổi. Về Đức Phật, Cụ viết: “Đức Phật là đại từ, đại bi, cứu khổ, cứu nạn; muốn cứu chúng sinh ra khỏi khổ nạn, Người phải hy sinh tranh đấu diệt lũ ác ma”[28].
          Về Chúa Giêxu, Cụ viết: “Gần 20 thế kỷ trước, một vị thánh nhân đã ra đời. Cả đời Người chỉ lo cứu thế, độ dân, hy sinh cho tự do, bình đẳng”. Cuối bức thư chúc mừng lễ giáng sinh, Cụ hô: “Thượng đế và Tổ quốc muôn năm!”[29]. Mùa hè năm 1946, tại Paris, Cụ Hồ tiếp môt nhóm linh mục công giáo đến thăm, trong đó có linh mục Cao Văn Luận - một tín đồ công giáo xác tín . Sau này, ông  đã thuật lại trong hồi ký của mình lời của Cụ Hồ trong buổi gặp: “Chính phủ bên nước nhà đang theo đuổi mục tiêu tranh thủ độc lập, đem hạnh phúc lại cho toàn dân. Nhưng muốn đem hạnh phúc cho toàn dân, thì phải thực hiện xã hội chủ nghĩa. Giả sử mà chúa Giêxu sinh ra vào thời đại này, trước sự đau khổ của người đời như lúc này, mà Chúa muốn cứu vớt, thì chắc là cũng phải theo xã hội chủ nghĩa”[30].  
Cụ luôn nêu cao tinh thần khoan dung tôn giáo, phấn đấu hết mình cho đoàn kết Lương - Giáo trong đại đoàn kết dân tộc.Tại cuộc họp mặt các đại biểu tôn giáo, đảng phái tại Chùa Bà Đá Hà Nội, mừng Chính phủ Liên hiệp Lâm thời vừa thành lập, do Cố vấn Vĩnh Thụy chủ trì, Cụ Hồ nói: “Nước Phật ngày xưa có những bốn đảng phái, làm ly tán lòng dân và hại Tổ quốc. Nhưng nước Việt Nam ngày nay chỉ có một đảng phái là toàn dân quyết tâm giành độc lập. Tín đồ  Phật giáo tin ở Phật, tín đồ Gia tô giáo tin ở Đức Chúa Trời, cũng như chúng ta tin ở đạo Khổng. Đó là những vị chí tôn nên chúng ta tin tưởng. Nhưng đối với nhân dân, chúng ta đừng có làm gì trái ý dân. Dân muốn gì, chúng ta phải làm nấy”[31] .
          Nói về khoan dung tôn giáo của Hồ Chí Minh, chính J. Sainteny thừa nhận: “Về phần tôi, phải nói rằng chưa bao giờ tôi có cớ để thấy nơi chương trình của Cụ Hồ Chí Minh một dấu vết nào, dù rất nhỏ, của sự công kích, đa nghi, hoặc chế diễu bất kỳ một tôn giáo nào”[32].
 
Một phong cách ứng xử chân thành, khiêm tốn, lịch lãm.
          Trong cuộc đời oanh liệt và phong phú của mình, Cụ Hồ đã trải qua bao bước thăng trầm của hoàn cảnh, với bao tình huống éo le, phức tạp phải giải quyết; đã gặp gỡ, tiếp xúc với đủ hạng người sang hèn trong xã hội, từ đồng bào trong nước đến bạn bè quốc tế năm châu, từ những lãnh tụ hàng đầu của cách mạng thế giới đến những tên thực dân cáo già quỷ quyệt,…qua đó Cụ đã để lại cho chúng ta một tấm gương quý giá về văn hóa ứng xử.
          Vĩ nhân, thật vĩ nhân, bao giờ cũng rất mực giản dị, khiêm tốn, lịch lãm. Cuộc đời cách mạng phi thường cùng tấm gương đạo đức vô song đã đưa Cụ Hồ lên hàng những nguyên thủ quốc gia có uy tín và danh vọng lớn trên thế giới. Tuy nhiên, trong những cuộc tiếp xúc, người ta lại thấy Cụ luôn nhã nhặn, khiêm tốn, không bao giờ đặt mình cao hơn người khác nhưng lại quan tâm rất mực tế nhị và chu đáo đến những người chung quanh.
          Linh mục Cao Văn Luận có đôi lần được dự các buổi tiếp tân của Cụ Hồ ở Paris năm 1946, phần đông thuộc lớp tinh hoa Pháp-Việt, kể lại: “Cụ Hồ bước ra, bắt tay mọi người, nói chuyện phiếm. Tôi phải công nhận Cụ Hồ là một người hiểu biết rộng rãi. Vấn đề gì Cụ cũng có thể nói chuyện sơ qua và tỏ ra hiểu biết…Dù mọi người kính nể Cụ Hồ, nhưng trong câu chuyện, đôi lúc cố ý, đôi lúc vô tình, họ không khỏi nêu lên những vấn đề khó khăn, có thể làm cho người được hỏi lâm vào thế kẹt. Tôi chưa lúc nào thấy Cụ Hồ bị kẹt như thế”. “Cụ Hồ nói chuyện thân mật với các thiếu phụ, đàn bà Pháp rất tự nhiên. Cụ tự tay hái những bông hồng đẹp nhất cài lên áo, lên tóc những bà mệnh phụ tham dự kèm theo những lời khen áo đẹp, những câu ca tụng nước Pháp… Người Pháp có cảm tình với Cụ nhiều lắm”[33].
          Sau Hiệp định Genève, ông Sainteny được Chính phủ Pháp cử làm Tổng Lãnh sự Pháp đầu tiên tại Hà Nội. Đối với ông, cuộc gặp lại đầu tiên sau mười năm với kẻ chiến thắng, là một việc khó khăn. Ông kể: “Chúng tôi cũng mất đến một phút nặng nề trôi qua, không, không đến một phút đâu…có lẽ chỉ vài giây thôi, rồi Cụ Hồ tiến lại phía tôi mà nói rằng: “Nào, chúng ta phải ôm hôn nhau đi chứ!”.Và chúng tôi đã ôm hôn nhau. Chính lúc đó, Cụ nói với tôi: “Chúng ta đã đánh nhau, đánh nhau quá nhiều, song rất trung chính. Bây giờ cần quên đi tất cả những cái đó, cần cùng nhau làm việc…”[34].Thật là một cách ứng xử tuyệt vời! Người chiến thắng không hề tỏ ra một chút vênh vang, kênh kiệu nào mà chủ động giơ tay ra trước, nhanh chóng xóa bỏ phút nặng nề cho đối phương bằng một cử chỉ chân thành, lịch lãm.
          Khách quốc tế từng một lần được tiếp xúc với Hồ Chí Minh đều có một cảm nhận chung: Cụ chủ động xóa bỏ mọi nghi thức, đến thẳng với trái tim con người bằng một tình cảm thân mật, gần gũi, tự nhiên, không chút gắng gượng. Chỉ một câu nói đùa, một cử chỉ thân mật, một lời hỏi thăm chân tình,…Cụ đã xóa đi ngay mọi ngăn cách, tạo ra một không khi thoải mái, ấm áp, như trong một gia đình.
          Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, Cụ Hồ có cuộc gặp mặt với các nhà văn, nhà báo nước ngoài đã tham gia chỉến dịch. Cụ dùng tiếng Nga, tiếng Pháp hỏi thăm tình hình sinh hoạt, sức khỏe của các nhà báo phương Tây. Khi giới thiệu đến nhà văn Đới Hoàng, Cụ dùng tiếng Trung Quốc hỏi: - “Ở Điện Biên Phủ, làm sao đồng chí ngã ngựa thế, giờ đồng chí đã khỏi chưa?”. Nhà văn Đới Hoàng kể lại: “Khi nghe hỏi thế, tôi không hề ngạc nhiên, vì đối với ai, Người cũng có tấm lòng của người mẹ hiền. Nhưng tôi không khỏi không cảm động: một chuyện nhỏ như thế mà sao cũng đến tai Người và Người lại nhớ lâu đến thế!”[35].
          Mùa xuân 1969, Đoàn đại biểu Ủy ban Việt Nam của CHDC Đức thăm Việt Nam, được đến chào Chủ tịch Hồ Chí Minh. Lúc này sức khỏe của Cụ đã yếu đi nhiều. Thấy các vị khách tỏ vẻ lo lắng, Cụ mỉm cười đôn hậu: “Các đ/c đừng lo, tôi vẫn ăn ngủ, làm việc bình thường”. Rồi Cụ hỏi một cách thân mật: -“Các chú có thấy lạnh không”? Tất cả đều trả lời “không”, vì với người Đức, tháng giêng ở Việt Nam quả là không lạnh. -“Không lạnh, nhưng rất nguy hiểm”. Nói xong, Cụ cởi chiếc khăn quàng của mình, quàng cho ông Mác Dêphrin - Chủ tịch Ủy ban Việt Nam, hôm ấy đang húng hắng ho. “Cử chỉ ấy làm cho ai nấy đều cảm động, nó thể hiện tình cảm của một người cha đối với những đứa con từ xa về”[36].
          Là một người hoạt động quốc tế lịch lãm nhưng Cụ Hồ không mấy câu nệ về hình thức, không để bị ràng buộc bởi những nghi lễ ngoại giao trang trọng, cứng nhắc mà thường có cách ứng xử linh hoạt, biến hóa, đem lại hiệu quả thú vị, gây ngạc nhiên cho tất cả mọi người.
          Năm 1959, Cụ Hồ sang sân bay Gia Lâm đón Tổng thống Ấn Độ, khi đó Ấn Độ đang giữ vai trò quan trọng là chủ tịch Ủy ban kiểm soát và giám sát quốc tế ở Việt Nam. Vị tổng thống cao tuổi này đã đọc một bài diễn văn không được hấp dẫn lắm trước quần chúng đón tiếp tại sân bay. Bỗng người ta thấy Cụ Chủ tịch gạt người phiên dịch sang một bên và nói: “Tổng thống phát biểu thì Chủ tịch phiên dịch mới hợp”. Rồi bằng một cách khéo léo kỳ lạ, Cụ đã dịch những câu tiếng Anh tẻ nhạt kia thành những câu tiếng Việt hấp dẫn, gây hào hứng, sôi nổi cho người nghe. Tiếng hoan hô, vỗ tay nổi lên như sấm. Buổi đón tiếp đã thành công mĩ mãn. Vị tổng thống nước bạn tỏ ra rất xúc động trước nhiệt tình, mến khách của nhân dân Việt Nam .
          Một nét đặc sắc trong văn hóa giao tiếp, nó cắt nghĩa sự thành công và khả năng chinh phục của Cụ Hồ, là Cụ luôn xuất hiện với một nụ cười, trong ánh mắt hoặc trên đôi môi. Ai đã đọc văn thơ Cụ đều từng biết đến những nụ cười nhiều cung bậc trong Ngục trung nhật ký. Trong ứng xử đời thường, sự hóm hỉnh, năng khiếu hài hước ấy càng được thể hiện đa dạng, phong phú hơn, để đùa vui, để nhắc nhở, châm biếm, giáo dục và nhất là để xóa đi cái cách bức, cái trịnh trọng không cần thiết, nhằm tạo ra không khí giao hòa, gần gũi giữa lãnh tụ với quần chúng.
          Cụ Hồ rất thich vui với quần chúng. Phải nói Cụ là người vui tính và dí dỏm nữa. Vì vậy, thường thấy mỗi khi Cụ Hồ xuất hiện ở đâu là ở đó rộn lên niềm vui và tiếng cười hồ hởi không dứt. Những năm kháng chiến ở Việt Bắc, để tạo ra không khí vui vẻ trong sinh hoạt kháng chiến nơi “u tì quốc”, Cụ Hồ nói với cụ Hoàng Đạo Thuý tổ chức một đêm lửa trại, vì cụ Hoàng vốn là một huynh trưởng Hướng đạo sinh biết nhiều trò chơi. Cụ Hoàng ngần ngại: chỉ có mấy cụ già và mấy ông bộ trưởng bận bịu, lửa trại khó vui lắm. Cụ Hồ đáp: sẽ vẫn vui đấy. Cụ Hoàng nảy ý tinh nghịch: nếu tôi làm “trùm lửa” thì ai cũng phải nghe tôi đấy!- Nhất định rồi! Cụ Hồ tủm tỉm cười, chắc đã hiểu được ý cụ Hoàng.
          Lửa trại bùng lên. Ngồi quanh Cụ Hồ là các cụ Tôn Đức Thắng, Phan Kế Toại, Phạm Bá Trực,…vài chục ông bộ, thứ trưởng và các nhân viên CP. Khai mạc lửa trại, cụ Hoàng đến trước mặt cụ Hồ, chắp tay: Xin mời Cụ Chủ tịch hát mở đầu lửa trại! Thấy Cụ Hồ bị “bỏ bom”, mọi người vừa thích thú, vừa lo ngại. Không chút ngần ngừ, Cụ nhẹ nhàng đứng dậy, vừa đi quanh lửa trại, vừa lên tiếng hát: “Anh hùng xưa, nhớ hồi là hồi niên thiếu, dấy binh lấy lau làm cờ, quên mình là mình giúp nước…”. Già trẻ ai nấy con mắt long lanh, âu yếm nhìn Cụ Chủ tịch của mình. Thế là cuộc lửa trại bắt đầu vui lên.
          Một lần khác, bác sĩ Trần Duy Hưng được cử làm “trùm lửa”, cũng muốn thử    trêu Cụ một cách trìu mến, xem Cụ có bí không. Ông giang hai tay giả làm máy bay, miệng kêu “ù ù’ rồi “hạ cánh”, chụm tay bắc loa: Alô, alô! Thưa đồng bào tp Hồ Chí Minh, Cụ Chủ tịch bay vào thăm đồng bào, xin mời Cụ Chủ tịch ra nói chuyện…Cụ nhổm dậy, nói ngay: “Thưa đồng bào, tôi đi máy bay vào, hơi bị mệt, xin để bác sĩ Trần Duy Hưng thay tôi nói chuyện với đồng bào!” Lúc đó, đâm ra chính ông trùm lửa bị bí chứ không phải là Cụ Hồ.
Năm 1955, Hà Nội vừa giải phóng được ít lâu, Cụ Hồ đến thăm NHA MAY CO KHI GIA LAM. Tấm biển trên cổng ra vào sơn chữ to nhưng không có dấu. Vào nhà máy, mở đầu câu chuyện với anh chị em công nhân, bỗng Cụ hỏi: “Nhà máy các cô, các chú ʻcó khỉʼ à?” Mọi người ngơ ngác nhìn nhau, không hiểu thế nào mà Cụ lại hỏi về chuyện “khỉ” thế này! Không ai trả lời được. Cụ giục: “Thế nào, trên biển nhà máy đề ʻcó khỉʼ cơ mà?”.- Dạ thưa, có đâu ạ. Cụ cười: “Có đấy! Biển nhà máy cơ khí Gia Lâm của các cô, các chú viết bằng chữ quốc ngữ mà không có dấu, nên Bác đọc nhầm là “nhà máy có khỉ” mà khỉ lại… “già lắm”! Cuộc gặp gỡ đã được mở đầu rất vui. Ai cũng được hưởng một trận cười sảng khoái và nhận được một lời phê bình nhẹ nhàng mà thấm thía.
          Mùa hè năm 1957, trong chuyến đi thăm Quảng Bình, Cụ Hồ và những người cùng đi dùng bữa cơm trưa tại Đồng Hới. Bữa cơm có những món đặc sản miền Trung: mắm tôm chua, rau muống chẻ, cá thu kho,…Mọi người ăn uống một cách ngon lành, thích thú. Cụ Hồ chỉ tay sang bác sĩ Nhữ Thế Bảo - bác sĩ riêng của mình - nói đùa: “Bác sĩ khuyên mọi người nên ăn chín, uống sôi, còn bản thân mình thì ăn rau sống hơi nhiều đấy”! Mọi người cười vang, bữa ăn càng thêm vui vẻ.
          Không chỉ đùa vui người khác, đôi lúc Cụ cũng nói đùa về bản thân mình. Những bài thơ “tự trào” trong Nhật ký trong tù cho thấy Cụ đã đứng cao hơn mọi đau khổ, bệnh tật mà kẻ thù cố tình đày đọa Cụ như thế nào, ta đã biết. Trong kháng chiến chống Pháp, có lần Cụ đội mưa to, đi bộ hàng mấy cây số, đến thăm và động viên một lớp học chính trị của trí thức. Giữa lúc mọi người đang thất vọng vì thấy mưa rừng to quá, chắc Cụ không đến được, thì trong chiếc áo mưa sũng nước, quần sắn quá đầu gối, nón lá đội đầu, Cụ hiện ra trong niềm ngạc nhiên, hân hoan và vui sướng của tất cả mọi người. Tiếng hô “Hồ Chủ tịch muôn năm” rộn vang cả rừng núi.. Cụ bước lên diễn đàn, giơ tay bảo ngừng, nói: “Muôn năm làm cái gì? Trăm năm đã là quá. Còn bây giờ, Bác chỉ “muốn nằm” một tí thôi!”.
          Năm 1946 tại Paris, sau khi đặt vòng hoa viếng mộ “người chiến sĩ vô danh”, xe đưa Cụ qua đại lộ Champs - Élysées, trở về khách sạn. Vị quan chức tháp tùng Cụ, nói: “Thưa Chủ tịch, đã có rất đông người đang đứng xem Ngài đi qua!”.Cụ Hồ bật cười đáp: “Chắc hẳn là thế ông ạ! Người ta muốn xem hề Charlot Việt Nam đấy mà!”.[37]
          Chính ở đây bộc lộ một nét cao thượng trong nhân cách Hồ Chí Minh, điều mà giới trí thức và chính khách phương Tây rất hâm mộ: ở Hồ Chí Minh tuyệt nhiên không hề có một vết gợn nào của tệ sùng bái cá nhân. Không ít người cầm quyền làm cho người dân bình thường khi được dịp đến gần có cảm giác như bị nghẹt thở, nhưng với Hồ Chí Minh thì, như một nhà thơ đã khái quát  trong một câu thơ để đời: “Đến bên Người, ta thở dễ dàng hơn”![38] Cụ Hồ đã đem lại hình ảnh mới về một vị Chủ tịch thực sự của nhân dân.
          Sau những ngày được đến Việt Bắc, được gặp gỡ, tiếp xúc với Cụ Hồ vào thời gian cuối cuả cuộc kháng chiến chống Pháp, kết thúc bàì bút ký của mình, nhà báo Mỹ R. Shaplen đã viết: “Trong rừng Việt Bắc, Cụ Hồ như một ông tiên. Nêú có ai bảo đây là một ngườì cộng sản thì tôi có thể nói Cụ là một ngườì cộng sản khác với quan niệm mà ta vẫn thường nghĩ và theo tôi có thể dùng một từ mới : một người cộng sản phương Đông, một ngườì cộng sản Việt Nam”[39]./.
 
 
 
[1] Térence ( 190-159 TCN), nhà thơ, nhà viết hài kịch Lamã cổ đại. Nguyên văn chữ la tinh: “Nihil humani a me alienum puto”.
[2] Hồ Chí Minh TT, xuất bản lần 2, 1995-1996, t.5, tr. 428. Các trích dẫn của Hồ Chí Minh, đều lấy từ lần xuất bản này.
[3] Hồ Chí Minh TT, sđd,  t.4, tr. 350.
[4] Hồ Chí Minh TT, t. 5, tr. 643-644
[5] Hồ Chí Minh TT, t. 4, tr. 357 và  267. Trong Kinh Cựu ước cũng như trong Tân ước và cả trong Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền, sau trở thành Hiến pháp 1793 của nước Pháp, ở điều 6, đều có một câu mang nội dung  tương tự: “Ne fais pas autrui ce que tu ne veux  pas  qu’il te soit fait”(Chớ làm cho người khác điều ta không muốn người khác làm cho mình).
[6] Hồ Chí Minh TT, t.4, tr. 65.
[7] Hồ Chí Minh TT, t. 5, tr. 129.
[8] Việt Phương: Cửa mở, Nxb Văn Học, H,.1970, tr. 58.
[9] “Chúng ta, những người cộng sản, chúng ta là những người có một tính cách đặc biệt riêng. Chúng ta được cấu tạo bằng một chất liệu đặc biệt riêng. Chúng ta họp thành đạo quân của nhà chiến lược vô sản vĩ đại- đạo quân của đồng chí Lênin…” (Điếu văn của Staline đọc trong lễ truy điệu Lênin, tháng 1-1924 tại Maxkva).
[10] Hồ Chí Minh TT, t. 9, tr.555.
[11] Hồ Chí Minh TT, t. 5, tr. 263.
[12] Hồ Chí Minh TT, t. 5, tr. 552.
[13] Bài đăng trên Newsweek ra ngày 25-04-1959. Dẫn lại theo P. Brocheux : “Ho Chí Minh, a biography”, tr. 185.
[14] Nguyên văn tiêng Pháp: “Avec un courage invincible et une vertu immaculée, qui furent comme le vrai or qui brille avec mille éclairs après avoir subir mille épreuves du feu, ton aïeul Gia Long, plusieurs fois noble et valeureux, vous a laissé, après des péripéties et des souffrances inocalculables, un pays riche, un peuple indépendent, une nation respectée par les forts et aimée par les faibles, un avenir plein de vie et d’évolution”. (Les lamentations de Trung Trac, đăng trên L’Humanité, ngày 22-06-1922 ). Bài này do Phạm Huy Thông dịch, lần đầu tiên in trong  “Truyện và Ký” của Nguyễn Ái Quốc, nhưng dịch giả hay NXB Văn học, đã lược đi 2 đoạn, trong đó có đọan này. NXB Sự Thật đã đưa nguyên văn bản dịch cuả Phạm Huy Thông vào Hồ Chí Minh TT, t.1,  xb lần thứ nhất, năm 1980.
[15] Hồ Chí Minh TT, t.4, tr. 87.
[16] Trần Dân Tiên: Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ Tịch, Văn Học, 1970, tr. 110.
[17] Hồ Chí Minh TT, t. 1, tr. 479.
[18] Xem bài Hoa sen, Hồ Chí Minh TT, t.8, tr. 139-140.
[19] Hoàng Đạo Thuý: Hồi ký “Theo Bác”, viết năm 1985, lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh .
[20] Hồ Chí Minh TT, s đ d, t. 4, tr. 161.
[21] Hommes d’état d’Asie et leur politique, bài viết về Ho Chi Minh của G. Boudarel, Académie de Paris, Université René Descartes,  2 – 1980, p. 129. Lời dịch tiếng Việt, tôi dựa theo bản dịch của Thu Giang Nguyễn Duy Cần.
[22] Hồ Chí Minh TT,t. 5. tr. 141-142.
[23] Hồ Chí Minh TT, t. 4, tr. 28.
[24] Hồ Chí Minh TT,t. 4. tr. 246.
[25] Dẫn lại theo Phạm Khắc Hòe: “Từ triều đình Huế đén chiến khu Việt Bắc”, Nxb Thuận Hóa, Huế,1987, tr. 117.
[26] Trả lời phỏng vấn của GS Ngô Vĩnh Long, trong phim “Việt Nam, một thiên lịch sử truyền hình”.
[27] Câu chuyện này do ông Trần Quốc Hương (tức Mười Hương, nguyên Bí thư TƯ Đảng, người trực tiếp chỉ đạo mạng lưới tình báo chiến lược ở Miền Nam thời chống Mỹ, trong đó có Vũ Ngọc Nhạ), nói với tác giả trong một buổi làm việc tại nhà riêng của ông ở tp Hồ Chí Minh, đầu năm 2004.
[28] Hồ Chí Minh TT, t.5, tr.197.
[29] Sđd, t. 4, tr. 490
[30] LM Cao Văn Luận: “Bên giòng lịch sử 1940-1965”, Hồi ký, chương 8 “Ba lần gặp gỡ Hồ Chí Minh”
(Theo bản trên mạng vantuyen.net/).
[31] Hồ Chí Minh TT, t. 4, tr. 148.
[32] J. Sainteny : “Đối diện với Hồ Chí Minh “, Seghers, Paris, 1970, tr. 155-156.
[33] LM Cao Văn Luận: “Ba lần gặp gỡ Hồ Chí Minh “, trong Hồi ký đã dẫn.
[34] J. Sainteny: “Un accord sans lendemain”, Planète Action, Mars 1970, p.100.
[35] Đới Hoàng: Ấn tượng về Chủ tịch Hồ Chí Minh, Nxb Thông tục độc vật, Bắc Kinh, 1956, tr.90 (Trung văn).
[36] Một giờ với đồng chí Hồ Chí Minh, Nxb Thanh niên, H, 1985, tr.188-189.
[37] Dẫn theo Hữu Ngọc: Phác thảo chân dung văn hóa Pháp, Nxb Ngoại văn, H, 1991, tr..23.
[38] Việt Phương, Cửa mở, sđd, tr. 96.
[39] Robert Shaplen : “The enigma of Ho Chi Minh”, The Reporter, số ra ngaỳ 27-01-1955, từ trang 11 đến 20.

Tác giả gửi ngày 7-5-12