Sunday, February 17, 2013

"Doanh nghiệp nhà nước giống như một đứa trẻ được cầm súng"

(Dân Việt) - Chính vì doanh nghiệp nhà nước không đủ năng lực để tạo ra ưu thế một cách tự nhiên so với các khu vực kinh tế khác, cho nên buộc phải được trang bị "súng đạn" nhiều để tạo ra ưu thế...

Trong cuộc trao đổi đầu xuân giữa PV NTNN và chuyên gia kinh tế Nguyễn Trần Bạt về vai trò của doanh nghiệp nhà nước (DNNN) - 1 trong 3 lĩnh vực nóng của nền kinh tế nước nhà - ông Bạt đã đưa ra một hình ảnh khái quát đầy ấn tượng về DNNN:
“DNNN giống như một đứa trẻ được cầm súng, và nó có uy thế chứ không phải ưu thế. Chính vì nó không đủ năng lực để tạo ra ưu thế một cách tự nhiên so với các khu vực kinh tế khác, cho nên nó buộc phải được trang bị súng đạn nhiều để tạo ra ưu thế. Và kết quả của việc ấy chính là sự khủng hoảng kinh tế hiện nay”.
“...Nếu không cải cách, không tái cơ cấu các năng lực bên trong thì DNNN không chỉ làm những nhiệm vụ cũ mà còn vấp phải các căn bệnh cũ”.
Khó mất đi "vai trò chủ đạo"
Dự thảo Hiến pháp sửa đổi đang đưa ra lấy ý kiến rộng rãi đã không còn xác định kinh tế nhà nước là chủ đạo nữa, có nghĩa rằng vai trò của kinh tế nhà nước, mà đại diện là các tập đoàn, tổng công ty sẽ không có được vỏ bọc "mỹ miều". Ông nhận xét gì về khuynh hướng này?
- Tôi nghĩ vấn đề đặt ra là kinh tế nhà nước có nhất thiết phải giữ vai trò chủ đạo không và kinh tế nhà nước có được hiểu và có cần phải hiểu trùng với khái niệm DNNN không? Kinh tế nhà nước ở đâu cũng có, nhưng DNNN thì không. Doanh nghiệp là công cụ, là những tế bào, những mô - đun của xã hội để thực hiện các dự án kinh tế. Nếu DNNN hay các loại hình doanh nghiệp khác bình đẳng với nhau trước pháp luật, bình đẳng với nhau trước chính sách, bình đẳng với nhau trước quyền tiếp cận tài nguyên thì nó có là DNNN hay doanh nghiệp tư nhân, cũng không thành vấn đề!
Vấn đề chính là chúng ta ưu tiên DNNN và sự ưu tiên này đã khiến chúng ta "gặt hái" những thất bại rất lớn. Những vấn đề kinh tế xã hội hiện nay chính là hậu quả của quan niệm về vai trò của DNNN, về mối liên hệ giữa kinh tế nhà nước với DNNN.
Chúng ta không thể tiếp tục duy trì các quan niệm cũ về DNNN. Phải phân biệt rõ giữa khái niệm DNNN và kinh tế nhà nước. Nhà nước có tiền, Nhà nước có vốn, Nhà nước có nhiệm vụ kinh tế, có các đơn đặt hàng và Nhà nước quan hệ với bất kỳ loại hình doanh nghiệp nào.
"Tái cơ cấu nền kinh tế chính là tái cơ cấu lại các quan niệm của Đảng và Nhà nước đối với nền kinh tế, và đối với các thành phần khác nhau của một nền kinh tế. Để từ đấy dần dần cùng với thời gian chúng ta có một mối tương quan, một mối quan hệ sản xuất bình đẳng giữa các khu vực kinh tế.
Vậy theo ông, lý do gì khiến DNNN được hưởng những sự ưu tiên đó?
- Trong xã hội chúng ta, không có nhiều doanh nghiệp ở các khu vực khác đủ quy mô, đem lại một độ tin cậy về năng lực thỏa mãn đòi hỏi của Nhà nước khi giao cho nó các hợp đồng kinh tế. Ví dụ trong khu vực xây dựng cơ bản, với những dự án cơ sở hạ tầng lớn thì rất khó có một doanh nghiệp tư nhân nào đủ độ tin cậy để Chính phủ đặt hàng. Cho nên chúng ta đành phải giao nó cho các DNNN.
Nói như vậy có nghĩa DNNN vẫn khó có thể bỏ đi "vai trò chủ đạo" của mình trong nền kinh tế?
- Dù quan niệm không phải DNNN là chủ đạo thì trên thực tế chúng ta cũng vẫn phải rơi vào thực trạng cũ tức là lại tiếp tục duy trì quan hệ với các xí nghiệp nhà nước, các DNNN. Chúng ta có những cái sai về nguyên lý. Giới trí thức vẫn bàn mãi là có nhất thiết phải có DNNN không, có nhất thiết DNNN hay xác định kinh tế nhà nước là chủ đạo không. Bây giờ nó vẫn như thế!
Mặc dù dự thảo Hiến pháp, dự thảo các Nghị quyết của Đảng đã bắt đầu nói đến câu chuyện bình đẳng giữa các khu vực, thành phần kinh tế khác nhau. Tuy nhiên trên thực tế, không thể tránh khỏi việc chúng ta sẽ vẫn tiếp tục bị buộc phải sử dụng các DNNN để thực hiện các dự án kinh tế của nhà nước, dự án kinh tế công. Ở giai đoạn sắp tới có thể có sự thận trọng hơn. Tuy nhiên nếu chúng ta không thấy được đầy đủ hậu quả của các quan niệm cũ về DNNN thì cùng với thói quen cũ, sự phân biệt đối xử giữa các khu vực kinh tế khác nhau sẽ xuất hiện trở lại.
 Chuyên gia kinh tế Nguyễn Trần Bạt
Và với vai trò "chủ đạo", DNNN vẫn có thể vin vào đó để được hưởng những ưu đãi của Nhà nước?
- DNNN sớm hay muộn cũng trở lại vai trò của nó trong các dự án phát triển sắp tới. Bởi xã hội chưa đủ lực lượng để tiếp cận một cách bình đẳng với những doanh nghiệp mà nhà nước đầu tư để phát triển, xây dựng nó. Cho nên dù nói kinh tế nhà nước không còn là chủ đạo, nhưng trên thực tế DNNN vẫn tiếp tục đóng một vai trò nhất định.
Vai trò ấy là hệ quả của các quan niệm trước đây chứ không phải là vai trò tự nhiên của DNNN. Bởi nếu trước đây chúng ta có những quan niệm khác thì có lẽ các loại hình doanh nghiệp, các khu vực kinh tế khác, thậm chí thói quen chỉ huy, thói quen đặt hàng của các cơ quan quản lý Nhà nước đối với các khu vực kinh tế khác nhau cũng sẽ khác.
Hiện nay chúng ta vừa không có bộ máy quản lý nhà nước, vừa không có thói quen sử dụng các công ty thuộc khu vực kinh tế khác. Các công ty thuộc khu vực kinh tế ngoài nhà nước không được tiếp cận với các hợp đồng như vậy nên họ cũng không phát triển quy mô, năng lực tương xứng để có thể gánh vác được những dự án kinh tế lớn. Đấy là một điều mà chúng ta phải nói trước về tính không thực tế của sự thay đổi chủ trương. Báo chí cần phải chuẩn bị để tiếp cận với một thực trạng như vậy.
Sự nguy hiểm của đa sở hữu
Những thất bại của DNNN đã quá rõ ràng. Vì thế, nếu cơ chế cũ có "tái xuất" như ông nói thì điều nguy hiểm nhất cần tránh là gì?
- Trước hết, chúng ta cần phải thấy rõ hậu quả của việc quan niệm sai lệch về chức năng của DNNN khi chúng ta đa dạng hóa ngành nghề, đầu tư ngoài ngành tràn lan. Nếu DNNN chỉ thực hiện đúng chức năng gốc của nó, chức năng đảm bảo cho khung sườn của đời sống kinh tế phát triển tốt thì có thể hậu quả không thế này. Nhưng bởi DNNN được giao quá nhiều ngành nghề hay tự đa dạng hóa ngành nghề, vì thế đã trở thành kẻ "đi ăn sương, đi ăn đêm" ngoài các nhiệm vụ chính, gây ra thất thoát lớn. Đấy cũng là một cách quan niệm. Tôi nghĩ đấy là một nhược điểm lớn của DNNN.
“Nếu muốn cải cách quản lý nhà nước ở mức vĩ mô đối với DNNN, chúng ta cần xây dựng các DNNN trở thành những tập đoàn công nghiệp, chứ không phải tập đoàn kinh tế. Phải vứt bỏ triệt để khái niệm tập đoàn kinh tế. Tập đoàn công nghiệp phải đảm nhiệm việc phát triển những ngành công nghiệp mũi nhọn để đảm bảo tính tiên tiến của nền kinh tế”.
Nhưng, điều nguy hiểm hơn là sự đa sở hữu trong các DNNN, tức là trong các tập đoàn kinh tế nhà nước có cả các tổ chức cổ phần, có cả các tổ chức đồng minh của nó là các công ty tư nhân có quan hệ kinh doanh với nhau. Tính đa sở hữu cũng là một trong các "đám sương mù" để tạo ra hiện tượng tiêu cực.
Thứ ba là năng lực quản trị. Việc bổ nhiệm cán bộ cho các doanh nghiệp lớn như hiện nay theo một công thức hoàn toàn không phù hợp với đời sống thị trường.
Ba đặc điểm ấy tạo ra tính không hiệu lực, không hiệu quả, sự thiểu năng của các DNNN.
Nhưng chúng ta đã có cả đề án, nghị quyết để tái cơ cấu DNNN trong năm nay, thưa ông?
- Nếu không cải cách, không tái cơ cấu lại các năng lực bên trong thì DNNN không chỉ làm những nhiệm vụ cũ mà còn lại vấp phải các căn bệnh cũ, các biểu hiện cũ, tức là chúng ta đi trọn một vòng luẩn quẩn. Chính vì thế mới có Nghị quyết về tái cơ cấu các DNNN. Nhưng tái cơ cấu theo khuynh hướng nào thì không rõ và vào thời điểm này theo tôi cũng không thuận lợi. Không thuận lợi vì toàn bộ nền kinh tế xuống dốc cùng với sự đi xuống của toàn bộ nền kinh tế thế giới. Cho nên có cải cách kiểu gì thì cũng không có môi trường thực nghiệm để các DNNN thể hiện sự thay đổi một cách tích cực trước và sau những tái cơ cấu, cải cách bên trong của nó.
Nên tôi cho là nếu xem tái cơ cấu DNNN như là một biện pháp khẩn cấp để tăng cường tính hiệu quả của phát triển, của hoạt động kinh tế cụ thể của nó, thì có lẽ thời điểm này không thuận. Nhưng nếu xem nó là một quá trình lâu dài, tái cơ cấu nó một cách chín chắn, và trước hết là tái cơ cấu quan niệm về vai trò của DNNN đối với sự phát triển kinh tế lại là việc cần thiết. Hay nói cách khác, chúng ta cần tái cơ cấu lại quan niệm của Đảng và Nhà nước đối với các DNNN. Việc ấy là việc phải làm trước nhất.
Chúng ta nói nhiều về hạn chế của DNNN. Chẵng lẽ DNNN không có ưu điểm gì sao, thưa ông?
- Tôi nghĩ là DNNN không có ưu điểm gì cả. Chúng ta cố gắng để nó có ưu điểm mà nó không có được. Thực tế đã cho thấy khu vực này ngăn cản việc xây dựng một nền kinh tế thị trường thật sự, bởi vì nó không chịu bình đẳng với các khu vực kinh tế khác. Một đứa trẻ mà được cầm súng thì sức mạnh của nó lớn hơn một ông lực sĩ cầm gậy. DNNN giống như một đứa trẻ được cầm súng, và nó có những uy thế chứ không phải có những ưu thế. Chính vì nó không đủ năng lực để tạo ưu thế một cách tự nhiên so với các khu vực kinh tế khác, cho nên nó buộc phải được trang bị súng đạn nhiều để tạo ra ưu thế. Và kết quả của việc ấy chính là sự khủng hoảng kinh tế hiện nay.
Một bài toán khó!
Vậy làm sao để giải bài toán doanh nghiệp tư nhân chưa đủ quy mô và năng lực, khiến DNNN vẫn phải giữ vai trò quyết định đối với sự phát triển?
- Các doanh nghiệp là hệ quả của sự phát triển kinh tế, chứ không phải là hệ quả của việc đầu tư của nhà nước. Chúng ta sốt ruột cho nên chúng ta đầu tư, cố gắng làm cho một đứa trẻ trở nên bình đẳng với người lớn bằng cách trang bị “súng đạn” cho nó, và do đó chúng ta rơi vào tình trạng như thế này. Cho nên tôi nói tái cơ cấu nền kinh tế của chúng ta chính là tái cơ cấu lại các quan niệm của Đảng và Nhà nước đối với nền kinh tế, và đối với các thành phần khác nhau của một nền kinh tế. Để từ đấy dần dần cùng với thời gian, chúng ta có một tương quan, mối quan hệ sản xuất bình đẳng giữa các khu vực kinh tế. Như thế chúng ta sẽ hạn chế được các mặt tiêu cực của DNNN. Phải nhớ DNNN là doanh nghiệp thuộc sở hữu nhà nước, chứ không phải là doanh nghiệp được nhà nước ưu tiên!
Ông Nguyễn Trần Bạt sinh năm 1946 ở Hưng Nguyên, Nghệ An. Ông là nhà sáng lập Công ty Tư vấn Đầu tư và Chuyển giao công nghệ (InvestConsult Group) - một công ty tư vấn chuyên nghiệp đầu tiên ở Việt Nam. Ông từng nhiều lần tư vấn cho Chính phủ về các vấn đề kinh tế và chính trị. Ngoài ra, ông cũng được nêu danh trong các cuốn sách Barons "Who's Who in Vietnam" , "Who's Who in Asia Pacific", "Who's Who in the World", và "The Global 500 Leaders for the New Century" như một luật sư và nhà tư vấn xuất sắc. Với vai trò là một học giả, ông đã xuất bản nhiều cuốn sách được đông đảo bạn đọc đón nhận như cuốn Suy tưởng, Cải cách và sự phát triển, Văn hóa và Con người, Cội nguồn cảm hứng, Đối thoại với tương lai…
Hướng sắp tới là sẽ chuyển các DNNN về cho các bộ, địa phương quản lý. Theo ông, đây có phải là giải pháp tối ưu?
- Thay thế sự tập trung quyền lực điều hành của Chính phủ bằng việc phân bố các quyền lực ấy đến các cấp dưới của Chính phủ cũng là một khuynh hướng để giải quyết sự bế tắc hiện nay, nhưng nó không tích cực. Bởi vì các DNNN đã từng thuộc các bộ. Bây giờ vấn đề đặt ra là bản chất của cuộc cải cách là gì. Rõ ràng Chính phủ cũng đã nói rồi, quay trở lại các nhiệm vụ kinh tế chính, xem DNNN bình đẳng với các khu vực kinh tế khác, các doanh nghiệp loại khác trước pháp luật, trước chính sách. Phải làm kiên quyết chuyện ấy. Thứ nữa là phải có một quy trình bổ nhiệm những người điều hành tốt. Đấy chỉ là cải cách vi mô trong khuôn khổ một doanh nghiệp.
Còn về cải cách quản lý nhà nước ở mức vĩ mô, theo tôi nghĩ chúng ta cần xây dựng các DNNN trở thành những tập đoàn công nghiệp, chứ không phải tập đoàn kinh tế. Phải vứt bỏ triệt để khái niệm tập đoàn kinh tế. Tập đoàn công nghiệp phải đảm nhiệm việc phát triển những ngành công nghiệp mũi nhọn để đảm bảo tính tiên tiến của nền kinh tế.
Chỉ Nhà nước mới có thể đầu tư để phát triển trong điều kiện hiện nay, để nền công nghiệp có những bước tiến. Chúng ta đưa về cho các bộ quản là mâu thuẫn, đưa về các địa phương lại càng mâu thuẫn nữa, bởi vì địa phương không đủ năng lực để tạo ra các tập đoàn công nghiệp mũi nhọn, để tạo ra tính tiên tiến của một nền kinh tế trong giai đoạn hiện nay, khi mà các khu vực kinh tế khác chưa đủ lớn. Cho nên phải nói thật là những chuyện này vẫn là một bài toán khó.
Chúng ta đã đưa ra nhiều giải pháp, chẳng hạn như cải tiến quản lý bằng cách thành lập các Ban kiểm soát trong các DNNN để chống lợi ích nhóm… Theo ông, những giải pháp quản trị như vậy có phát huy hiệu quả, khắc phục được tình trạng lạm quyền các DNNN?
- Chừng nào chưa tìm được lối thoát về mặt lý thuyết để giải phóng khu vực kinh tế nhà nước khỏi sự kiểm soát và quản lý trực tiếp của Nhà nước, chúng ta vẫn chưa thể giải quyết được vấn đề này.
Xin cảm ơn ông và chúc ông một mùa xuân mới với nhiều niềm vui!
Phương Hà

NGUYỄN TRẦN BẠT: Khi niềm tin ’nhảy lầu’, sự lương thiện ’chết sớm’

Do thiếu niềm tin xã hội, nhiều người đã nhảy lầu tự kết liễu cuộc sống của mình… Phải làm sao khi đề cao tính lương thiện nhưng trong cuộc sống, người lương thiện là người chết sớm nhất?
Không phải là chúng ta mất lòng tin với nhau mà là chúng ta mất đi sự gắn kết – ông Nguyễn Trần Bạt chia sẻ cái nhìn về niềm tin và sự lương thiện trong cuộc sống.
Sống với nhau bằng niềm tin
Gần đây người ta nói nhiều đến việc bị mất niềm tin. Ông nhìn nhận thế nào?
Niềm tin ở con người là một thứ hoóc môn sống, là điều kiện cần thiết tối thiểu để con người ta yên tâm sống. Không có nó, người ta có thể không chết, nhưng cũng không sống đích thực. Không có niềm tin, con người chỉ sống một cách tối thiểu, rời rạc với nhau và tối thiểu với chính mình.
Không phải là chúng ta mất lòng tin với nhau mà là chúng ta mất đi sự gắn kết - ông Nguyễn Trần Bạt chia sẻ cái nhìn về niềm tin và sự lương thiện trong cuộc sống.
Không phải là chúng ta mất lòng tin với nhau mà là chúng ta mất đi sự gắn kết – ông Nguyễn Trần Bạt chia sẻ cái nhìn về niềm tin và sự lương thiện trong cuộc sống.
Niềm tin là chất kết dính của xã hội, nếu không có niềm tin, chúng ta sẽ cảm thấy vô cùng bất an bởi trạng thái cô đơn trong cuộc sống.
Phải chăng đã qua rồi cái thời chúng ta cùng hát một bài ca, cùng có những quyển sách gối đầu giường, cùng nhìn về một hướng?
Cùng hướng tới một cái gì đó không phải là kết quả của niềm tin. Đấy là kết quả của việc có cùng mục đích. Giống nhau chưa phải là tin nhau. Người ta tin vào sự lương thiện của con người, chứ không tin vào sự giống mình của người khác. Tôi cho rằng, con người phải có những bài hát riêng, bản nhạc riêng, nhịp điệu và màu sắc riêng. Nhưng vấn đề là ở chỗ chúng ta đang mất đi sức thuyết phục của sự gương mẫu chính trị và đạo đức của các đối tượng có trách nhiệm lãnh đạo và tổ chức xã hội.
Liệu khi có được lòng tin xã hội thì mỗi người trong chúng ta sẽ có hạnh phúc?
Chúng ta không thể có ngay được hạnh phúc, dù chúng ta có quyền mưu cầu hạnh phúc. Khi có được lòng tin xã hội thì người ta phải biết rất rõ rằng, người kia hơn mình là bởi tài năng đích thực chứ không phải bằng cách sử dụng các cách thức bất chính, như vậy, xã hội mới có thứ bậc; đó là động lực làm cho người ta phấn đấu.
Do thiếu niềm tin xã hội, nhiều người đã nhảy lầu tự kết liễu cuộc sống của mình, nhưng không chỉ có thế: hàng đêm rất nhiều người trong chúng ta cũng đã “nhảy lầu”, giết chết từng phần trong đời sống tình cảm của chính mình…
Các thần tượng “dởm” đi về đâu?
Tôi thấy độc giả giờ đây quan tâm nhiều nhất đến hai vấn đề, một là các vụ án bạo lực, hai là các ngôi sao thần tượng?
Báo chí cần phải cảnh giác với nguy cơ làm nhiễm độc đời sống tâm hồn của con người. Thông tin bạo lực quá đà có thể làm hư hỏng xã hội trên một quy mô khổng lồ, song đôi khi chúng ta chỉ lên án một cách khá nhẹ nhàng là “truyền thông lá cải”.
Thứ hai là các thần tượng dởm. Truyền thông nếu không cẩn thận có thể trở thành một phương tiện để “nhân giống” tất cả các lỗi lầm của con người và thổi phồng nó lên.
Muốn tin vào xã hội, trước hết người ta phải tin vào chính mình, ông có nghĩ như vậy?
Trong tất cả các niềm tin mà chúng ta thiếu thì cái thiếu căn bản nhất là tin vào mình, tin vào sự tử tế, lương thiện của mình. Cái đó thường bị lãng quên, bị xếp xó. Trong tất cả các vẻ đẹp mà truyền thông và nhà nước “xúc tiến” giờ đây ít thấy nhắc đến vẻ đẹp về sự lương thiện của các cá nhân. Sự dịu dàng của người đàn bà bị bỏ qua; thay vào đó là vô số thông tin vô bổ về những đôi chân dài…
Tin ở hoa hồng
Là người đã trải qua nhiều giai đoạn lịch sử, nhiều thăng trầm của cuộc sống, niềm tin trong ông biến động thế nào?
Tôi luôn luôn tin vào tôi, tôi luôn luôn tạo lập cho mình một phổ rất rộng các giải pháp để sống ổn trong những điều kiện khác nhau về tinh thần, vật chất. Bây giờ, bỗng nhiên chúng ta nghèo khổ trở lại, tôi vẫn có một cuộc sống không đến nỗi nào. Tôi đã từng là một trưởng phòng trong thời kỳ bao cấp đói kém, tôi từng phải lo cho gia đình lẫn cơ quan của tôi những con bò, con lợn vào ngày lễ, ngày tết để mỗi người có thể có được dăm bảy lạng, một cân thịt. Tôi đã đi từ những việc lo lắng nho nhỏ như vậy đến hiện nay, cho nên tôi luôn luôn rèn luyện cho mình có đủ năng lực để ứng phó với mọi tình huống của cuộc sống.
Như thế thì chúng ta chỉ nên tin vào mỗi bản thân mình thôi sao?
Không, khi chúng ta tin vào bản thân mình thì chúng ta hiểu con người mình. Khi chúng ta hiểu con người mình thì chúng ta có tư liệu, có kinh nghiệm để hiểu những người lân cận, và chúng ta “ước lượng” họ trong các phép tính của mình để tạo ra các cơ cấu xã hội trong khuôn khổ, hay trong không gian của mình.
Nếu chỉ tin vào bản thân mình, vào tài sản ở trong túi mình thì có phải là vụn vặt quá không?
Rất vụn vặt. Cái đó nó không còn là cuộc sống mà một tập hợp cơ học của con người.
Tại sao chúng ta chỉ có những niềm tin hết sức vụn vặt như vậy? Bởi vì chúng ta không có được một thiết kế, một cộng đồng mà ở đấy người ta xử lý vấn đề lòng tin một cách có cơ sở khoa học.
Có một vở kịch của Lưu Quang Vũ lấy tựa đề là “Tin ở hoa hồng”. Sau nhiều bầm dập, Lưu Quang Vũ vẫn tin, còn ông, ông có tin ở các khái niệm như sự cao thượng, hay lòng tốt trong bối cảnh hiện nay?
Có chứ! Một giáo sư trẻ tuổi đã từng “vặn” tôi rằng, “anh đề cao tính lương thiện nhưng trong cuộc sống, người lương thiện là người chết sớm nhất”. Tôi đã trả lời: “Lương thiện là tiên đề để hình thành con người và xã hội loài người, người ta không mặc cả với sự lương thiện. Sự lương thiện có thể làm mình chết, nhưng thà chết chứ không thể đánh mất sự lương thiện. Cái đó mà không khẳng định thì tức là đi đến trạng thái “to be or not to be” – Tồn tại hay không tồn tại rồi”.
Xin cảm ơn những chia sẻ của ông!
Theo Doanh nhân

Thursday, January 3, 2013

Cái giá của sự bất công bằng


Thời Báo Kinh Tế Sài Gòn
Số đầu năm dương lịch 2013



Cái giá của sự bất công bằng
(Về giai cấp “siêu giàu” mới nổi)
 
Trần Hữu Dũng
 
Một trong những sự kiện gây nhiều phản ứng trên thế giới trong vài năm gần đây (nhất là sau cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008) là sự phân hoá thu nhập ngày càng rộng ra ở một số quốc gia, cụ thể là Trung Quốc, Nga, Brazil, Ấn Độ, và ngay cả Mỹ.  Thiểu số giàu có thì càng giàu hơn cực nhanh, đến độ “khủng”, còn đa số trung lưu và nghèo thì hoặc là chững lại, hoặc là nghèo hơn.  Ở Mỹ chẳng hạn, trong hai năm 2009-2010, khi mà thu nhập bình quân của 99% gia đình Mỹ chỉ tăng lên 0,9% thì thu nhập của 1% giàu nhất tăng lên 11,6%!  Một điều đáng lưu ý nữa là trong năm quốc gia có nhiều tỷ phú (đô la) nhất thế giới (Mỹ, Nga, Trung Quốc, Đức, Ấn Độ) thì hai nước vẫn còn tự xưng là “xã hội chủ nghĩa”, và hai nước vẫn còn được xem là đang phát triển (Trung Quốc, Ấn Độ)
Sự gia tăng bất công bằng thu nhập này đã gây ra nhiều làn sóng công phẫn ở các quốc gia liên hệ, không những từ thành phần xã hội bị “bỏ lại phía sau”, như phong trào “chiếm Wall Street” ở Mỹ năm 2011, và nhiều hội đoàn tiến bộ khác, mà còn được sự chú ý của nhiều học giả, nhà nghiên cứu nổi tiếng (ví dụ như nhà kinh tế Joseph Stiglitz,[1] nhà báo Timothy Noah,[2] Chrystia Freeland[3]...). Nhiều bình luận gia (ví dụ như Jonathan Chait) cho rằng cuộc bầu cử tổng thống Mỹ vừa qua có biểu hiện của một “chiến tranh giai cấp” trong đó giai cấp trung lưu và nghèo của Mỹ mà đại diện là Obama đã đánh bại giai cấp cực giàu của Mỹ mà Romney là đại diện.

Tại sao có những người siêu giàu?

Chủ đích bài này không là những người đã cực giàu từ lâu (như các vua chúa ở các vương quốc dầu hoả Á Rập, hay những lãnh tụ độc tài ở một số quốc gia). Ngoài ra, cũng phải nhìn nhận rằng nguồn gốc của những người siêu giàu mới nổi ở mỗi nước một khác.[4]  Tuy nhiên, nói chung, vài lý do chính (mà độ chính xác sẽ được thẩm định) của sự xuất hiện những người “siêu giàu” thường được viện dẫn là như sau:

Ở một thái cực, một số (tương đối rất ít) trở thành siêu giàu vì tài năng (kể cả tài tổ chức), sáng kiến xuất chúng (có thể thêm chút may mắn) của họ. Đây là cách giải thích của kinh tế học hàn lâm chính thống phương Tây. Nói đến những người này thì ta nghĩ ngay đến những nhân vật nổi tiếng như Bill Gates, Steve Jobs, Mark Zuckerberg...  Ở thái cực đối nghịch là những người siêu giàu nhờ những hoạt động bất hợp pháp (tham nhũng, cướp đoạt, đầu cơ, buôn lậu..)

Song nhìn kỹ thì cách phân loại trắng đen như trên là chưa đủ ngọn ngành.  Như Stiglitz cho thấy, tài sản kếch xù của Bill Gates, chẳng hạn, không phải chỉ nhờ vào tài năng (dù quả là xuất chúng) của ông ta nhưng phần lớn là nhờ vào vị trí độc quyền (hoặc hầu như độc quyền) của công ty Microsoft sau khi ông thành lập nó.  Chính sự độc quyền này đã đưa Bill Gates từ hạng cực giàu lên hàng cực siêu giàu.  Công ty Apple của Steve Jobs cũng thế.  Mỗi năm những công ty này bỏ ra hàng tỷ đô la trong các vụ kiện tụng để giữ độc quyền cho một sản phẩm nào đó (kể cả bằng sáng chế) của họ. Tất nhiên, những hoạt động này là hoàn toàn hợp pháp, song chúng chứng tỏ họ đã nhân tài sản của họ lên hàng trăm, hàng nghìn lần bằng cách lợi dụng, khai thác (những khe hở) thể chế và luật pháp, thậm chí uốn nắn thể chế và pháp luật (qua việc “lobby”) theo hướng có lợi cho họ.

Mặt khác, khách quan mà nói, cũng phải công nhận rằng những người siêu giàu nhờ tham nhũng, cướp đoạt, đầu cơ, buôn lậu, cũng có một cái tài nào đó, dù cái “tài” ấy chỉ là những mánh khoé luồn lách pháp luật, mua chuộc quan chức, lập vây cánh, khuynh đảo thị trường.  Một điều nữa là dù tài sản này có nguồn gốc bất chính, những người (tham nhũng, cướp đoạt, đầu cơ, buôn lậu...) này (hoặc gia đình họ) đã “rửa” tài sản ấy qua những hoạt động kinh doanh hợp pháp (nhất là bất động sản, ngân hàng). Nói khác đi, nhìn thoáng qua tài sản của nhiều người “siêu giàu” hiện nay thì có thể cho rằng nó hợp pháp, nhưng nếu truy ngược về quá khứ thì nguồn gốc của nó là phi pháp.  Tài sản đã là khá to lớn từ những hoạt động rõ ràng là phi pháp đã được nhân ra hàng trăm, hàng nghìn lần qua những hoạt động hợp pháp, biến họ từ những người giàu phi pháp thành những người siêu giàu hợp pháp...  Đi sâu thêm một bước, thử xem cách thức mà những người này “nhân” ra những tài sản ấy là ra sao? Đại đa số là nương nhờ vào những quan hệ cá nhân, những lỗ hổng trong luật pháp.  Đó là không nói đến việc chính họ có thể chủ động “lobby” để nhà nước ra những luật lệ có lợi cho họ. Như Stiglitz nhận xét, dù ngoài mặt thì những thế lực kinh tế đã tạo nên sự bất công bằng thu nhập, nhưng chính chính sách của nhà nước đã tạo nên các thế lực kinh tế ấy.  Phần lớn sự bất công bằng hiện nay là hậu quả của những gì mà nhà nước đã làm, và cũng là hậu quả của nhiều việc mà nhà nước không làm.

Một nguồn gốc nữa của sự siêu giàu là do tích cực khai thác sự thiếu kém thông tin của đa số những người khác.  Chẳng hạn như giới ngân hàng, bảo hiểm, kinh doanh bất động sản ở Mỹ đã trở nên cực giàu nhờ “nghĩ ra” những công cụ tài chính, bảo hiểm, những loại chứng khoán vô cùng phức tạp, không ai hiểu nỗi.[5]

Cũng nên để ý rằng các nguồn gốc khác nhau của sự “siêu giàu” này có “liên hệ hữu cơ” với nhau, đặc biệt là với tham nhũng: trong nhiều trường hợp, tham nhũng cho một cái “vốn” để những người giàu trở thành cực giàu (một cách hợp pháp). Và chính những người cực giàu này khuyến khích, mớm đút, tạo cơ hội tham nhũng ở những người khác.

Gần đây ở Việt Nam hai ý niệm “tham nhũng” và “nhóm lợi ích” thường được ghép chung.  Điều này không hoàn toàn đúng.  Theo nguyên ngữ thì “nhóm lơi ích” là một tập họp của những người có cùng quyền lợi kính tế, hợp lực với nhau để bảo vệ, tranh đấu cho quyền lợi ấy.  Đó là một hiện tượng đương nhiên, tự nó không có gì là xấu (chẳng hạn, xét cho cùng, công đoàn để bảo vệ quyền lợi của nhân dân lao động cũng là một nhóm lợi ích chứ gì?).  Song khi các nhóm lợi ích thông đồng, cấu kết với tham nhũng  ̶  trong đó tham nhũng dựa vào đòn bẫy của nhóm lợi ích để tác động đến nền kinh tế, đến xã hội, và vâng, đến thể chế chính trị nữa.. .̶  thì sự nguy hại của tham nhũng được nhân lên nhiều lần.  Không những thế, khi tham nhũng có được một nhóm lợi ích làm hậu thuẫn thì dù vài cá nhân tham nhũng có sa vào vòng lao lý, nhóm lợi ích đàng sau những người ấy vẫn còn đó, tác hại của nó vẫn tiếp tục.

Kinh tế thị trường là một trò chơi cực kỳ phức tạp và những người thắng cuộc chơi ấy hẵn là khôn lanh ít nhiều hơn người khác.  Song những người thắng cuộc cũng thường có những bản chất không đáng ngưỡng mộ: khả năng luồn lách pháp luật, hoặc uốn nắn pháp luật theo cách có lợi cho họ, sự sẵn sàng lợi dụng kẻ khác – ngay cả những người nghèo; và chơi những trò “bẩn”, nếu cần.

Ảnh hưởng kinh tế của sự cực giàu

Cho đến gần đây, khi bàn về vấn đề chênh lệch thu nhập, giới kinh tế chính thống thường chỉ nói đến ảnh hưởng của nó đến tốc độ tăng trưởng vĩ mô. Những người theo phái thị trường tự do (hay “tân phóng khoáng” – neoliberalism) thì cho rằng bất công bằng thu nhập, dù tự nó không phải là tốt, là đáng cổ vũ, cũng là một tiền đề khó tránh của một nền kinh tế muốn tăng trưởng nhanh: những nguời giàu sẽ có xu hướng đầu tư nhiều hơn...  Nói cách khác, dù tầng lớp cực giàu có tích tụ tài sản của họ cách nào đi nữa (miễn là hợp pháp) thì họ cũng có ích cho xã hội vì nhờ họ mới có đầu tư, tạo công ăn việc làm cho lao động, đầu tàu cho sự tăng trưởng của cả nước. Chẳng những mức độ tài sản của họ là có ích cho xã hội, sự chênh lệch thu nhập cũng là cần thiết để phát triển bởi nó tạo động lực cho lao động (cả tay chân lẫn trí tuệ).  “Cào bằng” thu nhập thì còn đâu những khuyến dụ (incentive) để nỗ lực làm việc?  Nói cách khác, theo những người này, có sự đánh đổi không thể tránh giữa “hiệu quả kinh tế” và “công bằng thu nhập”.

Có ba cách phản biện quan điểm này.

Một là, quan điểm ấy dựa trên giả định là nền kinh tế có sự cạnh tranh hoàn hảo: ngay khoa kinh tế học chính thống cũng đã chứng minh từ lâu rằng chỉ trong một nền kinh tế như thế thì lợi ích cá nhân mới trùng hợp với lợi ích cộng đồng (nghĩa là, người thu được lợi ích cá nhân cũng đem lại lợi ích cho tập thể).  Trên thực tế, không nền kinh tế nào có một sự “cạnh tranh hoàn toàn” như thế: những sự méo mó (như độc quyền, chẳng hạn) sẽ khiến lợi ích cá nhân lớn hơn lợi ích tập thể, và những người theo đuổi lợi ích cá nhân không hẵn sẽ có ích cho tập thể.  Nói rộng ra, trong một nền kinh tế bị “méo mó” vì những “hoạt động tìm lợi nhuận trên bình thường” (rent seeking activity) thì những người được hưởng những khoản tư lợi khổng lồ không nhất thíết là những người có đóng góp lợi ích tương ứng cho tập thể.  

Hai là, nhiều nhà tâm lý học, nhà khoa học xã hội (và thậm chí một số nhà kinh tế học) đã điều tra cặn kẽ để tìm xem cái gì là động lực lao động của con người, và họ khám phá rằng, ít nhất là trong nhiều trường hợp, giới kinh tế gia đã lầm khi cho rằng thu nhập là động cơ duy nhất. Đa số chúng ta thường làm việc hăng say hơn khi được thúc đẩy bởi những động lực nội tại (chẳng hạn như sự mãn nguyện khi làm một việc gì đó một cách hoàn hảo) hơn là bởi những phần thưởng đến từ bên ngoài (như lương tiền). Lấy một ví dụ, trong hai thế kỷ vừa qua, hầu hết các nhà khoa học góp phần nâng cao đời sống của nhân loại không phải vì họ theo đuổi tiền tài. Đó là điều may mắn cho chúng ta, bởi nếu những người xuất chúng ấy theo đuổi tiền tài thì họ đã trở thành chủ ngân hàng, kinh doanh bất động sản, mà không là nhà khoa học. Chính sự say mê tìm tòi chân lý, niềm vui của hoạt động trí tuệ, hạnh phúc tuyệt vời của khám phá, phát minh – và, vâng, sự ngưỡng mộ của đồng nghiệp  ̶  là quan trọng nhất đối với các nhà khoa học.

Ba là, ngay trong trường hợp mà “thù lao” của những người cực giàu (nhất là trong giới tài chính, ngân hàng) là “kỷ lục” với lý do rằng mức độ thù lao ấy là cần thiết để những người này “cố gắng” hơn, nhiều nghiên cứu đã phát giác rằng cái “gói thù lao” kếch xù (làm trầm trọng thêm sự bất bình đẳng trong xã hội) đang được các đại công ty, các ngân hàng, quỹ đầu tư áp dụng, đã khiến những người này có những quyết định làm méo mó hơn, thay vì gia tăng hiệu quả của nền kinh tế.  Kinh tế học đã chứng minh rằng, vì thông tin và giám sát không bao giờ là đầy đủ, rất khó (gần như không thể) thiết kế một “gói thù lao” tối hảo (nhìn từ quan điểm quyền lợi cổ đông, đừng nói chi đến lợi ích toàn xã hội) cho lãnh đạo các ngân hàng, giám đốc các đại công ty.  

Ngoài những tác động (có thể gọi là vi mô) nói trên, sự cực giàu của một thiểu số còn có những ảnh hưởng vĩ mô tai hại: nó sẽ bóp méo tỷ lệ các loại hàng nhập khẩu. Những người cực giàu, với sức mua lớn, sẽ làm tăng nhu cầu nhập khẩu những món hàng xa xỉ (xe xịn, hàng hiệu).[6]  Việc này sẽ làm giảm giá trị nội tệ, và làm mắc hơn những loại hàng nhập khẩu mà đa số người tiêu dùng là có thu nhập thấp.

Ảnh hưởng xã hội của tầng lớp “siêu giàu” mới nổi

Đối với một số chế độ (như ở Trung Quốc) thì tình trạng cực kỳ bất bình đẳng có một hậu quả tai hại duy nhất là gây bất ổn trong xã hội, hăm doạ sự tồn tại của chế độ ấy. Nhận định này là đúng nhưng chưa đủ

● “Thu nhập tương đối” và “hạnh phúc con người”

Gần đây, một số nghiên cứu đã phát hiện rằng hạnh phúc con người còn tuỳ vào thu nhập tương đối (ngoài mức thu nhập tuyệt đối để thoả mãn những nhu cầu sinh tồn). Thu nhập càng chênh lệch thì những người có thu nhập trung bình, hoặc thấp, càng thấy “kém hạnh phúc”.  Tình trạng này càng trầm trọng khi những người có thu nhập cao lại thích phô trương, hào nhoáng, khiến những người có thu nhập kém hơn họ phải ganh tỵ, thèm muốn.

Một ảnh hưởng nữa là ở cơ hội tiến thủ của những người xuất thân từ gia đình có thu nhập thấp: Họ sẽ thất vọng, nản chí khi thấy rằng chỉ con cái nhà giàu là có nhiều cơ hội học trường giỏi (và nếu nước họ là chậm tiến thì sẽ được xuất ngoại du học).  Sau khi tốt nghiệp thì những “con cái nhà giàu” này tất nhiên sẽ ưu tiên có những địa vị béo bở trong xã hội, cho họ cơ hội làm giàu thêm. Cứ như thế, sự bất bình đẳng trong xã hội sẽ truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác.

● Bất bình đẳng thu nhập và đời sống văn hoá

Trong một xã hội cực kỳ bất bình đẳng, và nhất là khi tài sản của những người cực giàu là phi pháp, hoặc những người này thiếu căn bản văn hoá, phô trương sự giàu có của mình một cách vô ý thức, thì đời sống văn hoá của toàn xã hội cũng sẽ bị xấu đi: Những lối ăn chơi phù phiếm, sa đoạ, xa xỉ, đua đòi hàng hiệu nhập khẩu (nhất là khi lối sống này không bị kết án mà còn được các phương tiện truyền thông đại chúng quảng bá, trầm trồ ngợi khen), sẽ cuốn hút toàn thể xã hội vào con đường ấy, ngày càng lệch xa những lối sống văn minh thật sự.


Phải làm gì?

Có những người cực đoan cho rằng sự xuất hiện của tầng lớp siêu giàu mới nổi là một hiện tượng tự nhiên, thậm chí có lợi cho xã hội, và những ai chống lại hiện tượng này chỉ là những kẻ ganh tỵ xấu nết... Theo những người cực đoan này, nhà nước không cần làm gì cả. Tuy nhiên, như đã trình bày ở trên, hiện tượng siêu giàu mới nổi không phải là “tự nhiên” mà là hậu quả của sự khôn lanh khai thác những “lỗ hổng” của thể chế, của nền kinh tế, và gây nhiều hậu quả cực kỳ nghiêm trọng cho chính sự phát triển của quốc gia, và rộng ra là cho mức độ an sinh của tuyệt đại đa số trong xã hội.

Đàng khác, không ai có thể khách quan mà nghĩ rằng thu nhập của mọi người trong xã hội đều phải như nhau. Một sự bất bình đẳng thu nhập nào đó là không thể tránh, thậm chí cần thiết. Vấn đề ở đây là sự xuất hiện một thiểu số cực giàu, trong một khoảng thời gian tương đối ngắn, mà thu nhập dù hiện tại có là hợp pháp, đã vượt quá xa tài sức và sự đóng góp của họ cho xã hội.

Hầu hết các nhà lãnh đạo trên thế giới, từ tổng thống Mỹ Barack Obama đền nguyên tổng bí thư Trung Quốc Hồ Cẩm Đào, đếu ít nhiều nghĩ rằng nhà nước cần can thiệp để làm giảm sự bất bình đẳng thu nhập trong xã hội.  Một chính sách cấp thời có thể là tăng suất thuế đánh vào người giàu (như ông Obama hiện đề nghị).  Tuy nhiên, như đã trình bày trong bài này, một chính sách dài hạn phải là chấn chỉnh những méo mó kinh tế (ưu tiên gỡ bỏ những độc quyền, đặc lợi, chế độ “xin/cho”, và tạo một sân chơi bình đẳng cho mọi người). Sự tái cấu trúc thể chế này sẽ cực kỳ khó khăn vì chắc chắn nó sẽ gặp sự kháng cự mãnh liệt, công khai lẫn ngấm ngầm, của giai cấp cực giàu hiện hữu (cấu kết thành các “nhóm lợi ích”) với những thế lực tài chính, kinh tế, và vâng, chính trị nữa, vô cùng to lớn của họ.  Một sự tái cơ cấu như thế chỉ có thể thành công nếu nó không bị ảnh hưởng của bất cứ nhóm lợi ích nào, nhất là trong một thực trạng mà những nhóm lợi ích ấy lại “tay trong tay” với tham nhũng.

Trần Hữu Dũng
21/12/2012



 

[1] Joseph Stiglitz, 2012, The Price of Inequality: How Today's Divided Society Endangers Our Future,  New York: Norton
[2] Timothy Noah, 2012, The Great Divergence: America's Growing Inequality Crisis and What We Can Do about It, New York: Bloomsbury Press.
[3] Chrystia Freeland, 2012, Plutocrats: The Rise of the New Global Super-Rich and the Fall of Everyone Else, New York: Penguin
[4] Một cuốn sách thú vị về tầng lớp siêu giàu mới nổi ở Nga là The Oligarchs: Wealth And Power In The New Russia của David Hoffman (New York: PublicAffairs, 2002)
[5] Tương truyền rằng chính ông Ben Bernanke, chủ tịch Fed của Mỹ, lúc mới nhậm chức cũng không hiểu nỗi tất cả những công cụ này, phải mời một chuyên viên ngân hàng đến giải thích cho ông!
[6] Nếu nhà nước cấm nhập khẩu chính thức những loại hàng này thì họ sẽ nhập khẩu qua những kênh bất hợp pháp, tạo thêm cơ hội cho tham nhũng.


3-1-13