Wednesday, May 9, 2012

Cụ Hồ, con người và phong cách




Ngô Trần Đức
 
          Sinh thời, trong một lần “tự bạch”, khi trả lời câu hỏi của con gái về  “câu cách ngôn mà cha thích nhất?”, Marx đã chọn câu của Térence - nhà thơ La mã cổ đại: Không có gì thuộc về con người lại xa lạ đối với tôi”.[1] Cũng có thể nói như vậy về Cụ Hồ. Cụ vĩ đại, siêu việt, hơn thường, nhưng Cụ không phải là ông thánh, một vì sao chỉ lấp lánh ở chân trời xa! Cụ là một con người trần thế với tất cả khát vọng về hạnh phúc và niềm vui được sống, được làm người trên thế gian này. Là một con người nhân hậu, giản dị, Cụ gần gũi, thân thiết với tất cả mọi người, không có gì thuộc về con người lại không vang vọng sâu xa trong tâm hồn của Cụ.
          Người Việt chúng ta không có truyền thống “tự bạch” như người phương Tây ở thế kỷ trước, để qua đó có thể bộc bạch công khai tâm hồn mình - những điều yêu ghét, mong mỏi, theo đuổi trong cuộc đời - như Marx trả lời con gái. Nhưng cũng có  lần, một phóng viên của tờ Frères D’Armes (Bạn chiến đấu) đã hỏi Cụ Hồ theo kiểu này:
   -Thưa Chủ tịch, Chủ tịch ghét gì nhất? - Điều ác.
   -Thưa Chủ tịch, Chủ tịch yêu gì nhất?  -Điều thiện.
   -Chủ tịch cầu mong gì nhất? -Nền độc lập của nước tôi và của tất cả các nước trên hoàn cầu.
  -Thưa Chủ tịch, Chủ tịch sợ gì nhất? -Chẳng sợ gì cả. Một người yêu nước không sợ gì hết và nhất thiết không được sợ gì.[2]     
          Số câu hỏi ít, nội dung trả lời ngắn, tuy vậy cũng đã cho ta thấy được điều cốt yếu nhất trong con người Cụ: theo đuổi những giá trị phổ quát, có ý nghĩa toàn nhân loại: yêu điều thiện, ghét điều ác, yêu nước mình đồng thời tôn trọng độc lập của tất cả các nước, đó là một người chân chính, vì vậy không có gì phải sợ và nhất thiết không được sợ gì! Từ điểm xuất phát này, chúng ta có thể từng bước khám phá để hiểu được con người và phong cách Hồ Chí Minh.
 
Một tư duy hài hòa, uyển chuyển, có lý có tình.
          Xem xét tính cách, phẩm chất của một con người cũng như của một vĩ nhân, người ta thường bắt đầu từ xem xét đặc điểm tư duy của họ, xuất phát điểm của tư duy khác nhau sẽ dẫn đến những kết quả khác nhau. Trong đời sống, do địa vị xã hội, lợi ích giai cấp và xu hướng cá nhân, mỗi người thường theo đuổi những giá trị khác nhau. Cái mà anh cho là tốt đẹp, là lý tưởng chưa hẳn đã là tốt đẹp và lý tưởng đối với tôi. Tuy nhiên, bên cạnh cái riêng, cái giai cấp, vẫn tồn tại cái chung, cái nhân loại mà ở thời nào, dân tộc nào cũng đều thừa nhận. Cụ Hồ từng viết: “Tuy phong tục mỗi dân mỗi khác, nhưng có một điều thì dân nào cũng giống nhau: Ấy là dân nào cũng ưa sự lành và ghét sự dữ”[3]. Như vậy, lành - dữ, thiện - ác, chính - tà, tự do - độc lập, nhân ái - hòa bình, dân chủ - bình đẳng,…là những phạm trù chung, có giá trị toàn nhân loại, không ai có thể phủ nhận được.
Đặc điểm nổi bật của tư duy Hồ Chí Minh là Cụ luôn luôn xuất phát từ cái chung, cái nhân loại, từ những chân lý phổ biến, “những lẽ phải không ai chối cãi được”. Để xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc, Cụ thường không mấy đề cập đến địa vị giai cấp, thành phần xuất thân,…của người dân, mà chỉ đưa ra những chuẩn mực chung nhất, như là yêu nước - bán nước, thiện - ác, chính - tà,…Cụ viết: “Trên quả đất có hàng muôn triệu người. Song số người ấy có thể chia làm hai hạng: người thiện và người ác. Trong xã hội, tuy có trăm công, nghìn việc, song những công việc ấy có thể chia làm hai thứ: việc chính và việc tà. Làm việc chính là người thiện. Làm việc là người ác…Trừ bọn Việt gian bán nước, trừ bọn phát xít thực dân, là những ác quỷ mà ta phải kiên quyết đánh đổ, đối với tất cả những người khác thì ta phải yêu quý, kính trọng, giúp đỡ”[4].
Để đàm phán, thuyết phục đối phương đi tới đồng thuận, Cụ Hồ luôn lập luận trên nguyên tắc về tính đồng nhất của nguyên lý. Cụ viết: “Quyền độc lập, tự do, ở nước nào cũng vậy, đều do xương máu của những nghĩa sĩ và đoàn kết của toàn quốc dân mà xây dựng nên. Vậy nên, những người chân chính ham chuộng độc lập, tự do của nước mình thì phải kính trọng độc lập tự do của các dân tộc khác”. Cụ nói với Thủ tướng Pháp G. Bidault (2-7-1946): “Chúng ta đều được kích thích bởi một tinh thần: triết lý đạo Khổng và triết lý phương Tây đều tán dương một nguyên tắc đạo đức: Kỷ sở bất dục, vật thi ư nhân. Tôi tin rằng trong những điều kiện ấy, Hội nghị sắp tới sẽ đi đến những kết quả tốt đẹp[5]. “Các bạn yêu nước Pháp của các bạn và muốn nó độc lập. Các bạn yêu đồng bào của các bạn và muốn họ được tự do… Chúng tôi cũng phải được yêu nước của chúng tôi và muốn nó độc lập chứ! Chúng tôi cũng phải được phép yêu đồng bào chúng tôi và muốn họ được tự do chứ! Cái mà các bạn coi là lý tưởng, cũng phải là lý tưởng của chúng tôi[6].
Những chân lý này không có biên giới, nó là lương tri của loài người, không bị chi phối bởi một chủ thuyết nào cả. Việt Nam chiến đấu là để bảo vệ và góp phần thức tỉnh lương tri ấy.
Tháng 5-1947, Paul Mus, đại diện của E. Bolaert, lên Thái Nguyên gặp Cụ Hồ, đưa ra 3 điều kiện để ngưng chiến: 1.đòi ta phải nộp hết vũ khí cho họ ; 2. đòi quyền cho họ được tự do đi lại trên khắp nước Việt Nam; 3. đòi trao trả cho họ những người lính Pháp phản chiến đã gia nhập hàng ngũ của chúng ta. Thực chất, đó là một tối hậu thư đòi chúng ta phải đầu hàng! Cụ Hồ hỏi lại P.Mus: “Các bạn là những người đã chiến đấu oanh liệt để bảo vệ Tổ quốc, các bạn hãy đứng vào địa vị chúng tôi, các bạn có thể nào chịu nhận những điều kiện như thế không?”[7] Paul Mus phải thừa nhận rằng: nếu ở vào địa vị mình, ông cũng không thể chấp nhận.
          Một đặc điểm thứ hai của tư duy Hồ Chí Minh là Cụ rất dị ứng với mọi biểu hiện của lối suy nghĩ cạn hẹp, phiến diện, một chiều. Có một thời, thế hệ chúng tôi không tránh khỏi mang những nhược điểm của lối tư duy ấy: cách mạng là đoạn tuyệt với mọi cái cũ, chủ nghĩa xã hội hơn hẳn chủ nghĩa tư bản về mọi mặt, con người mới hơn hẳn con người cũ, v.v… Cách suy nghĩ đó một thời đã đi vào thơ ca, tiểu thuyết, đến mức nhiều người thành thật tin là như vậy:
                                          Thuở Anh chưa ra đời,
                                          Trái đất còn nức nở,
                                         Nhân loại chửa thành người,
                                        Đêm ngàn năm man rợ. 
                                       (Bài ca Tháng Mười)
           Khi ấy đâu có ai dám thắc mắc: chẳng nhẽ cha ông ta với mấy nghìn năm văn hiến, cũng đều là man rợ cả sao? Sau này, khi trưởng thành hơn, một nhà thơ khác đã “phản tỉnh” về hiện tượng tư duy “ngây thơ, ngờ nghệch” của một thời, khi cứ chân thành nghĩ rằng:            
                             Đồng hồ Liên Xô tốt hơn đồng hồ Thụy Sĩ,
                            Trăng Trung Quốc tròn hơn trăng nước Mỹ? [8]
          Tất nhiên, lối suy nghĩ “ấu trĩ tả khuynh” này hoàn toàn xa lạ với phong cách tư duy của Cụ Hồ. Theo Cụ, lịch sử là một dòng chảy không ngừng, cách mạng là đột biến trong liên tục, cái mới sinh ra từ cái cũ, có khi lật ngược cái cũ, nhưng không vứt bỏ những yếu tố đúng đắn, hợp lý của cái cũ; chủ nghĩa xã hội không phủ định sạch trơn mà kế thừa và phát huy tất cả những giá trị văn hóa-văn minh của nhân loại từ các đời trước để lại. Không phải cứ cách mạng thành công rồi thì con người bỗng tự nhiên trở nên “thiên thần” và người đảng viên cộng sản được coi là những người “có tính cách đặc biệt riêng, được cấu tạo bằng một chất liệu đặc biệt riêng”- như một lãnh tụ của một Đảng cộng sản trước đây đã từng nói.[9]
          Cụ Hồ chống lại thói “kiêu ngạo cộng sản” ấy. Cụ nói: “Đảng viên chúng ta là những người rất tầm thường, vì chúng ta là con của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động, chúng ta chỉ biết trung thành với giai cấp vô sản, quyết tâm đấu tranh cho nhân dân. Thế thôi. Chính vì chúng ta rất tầm thường nên Đảng ta rất vĩ đại. Ngoài lợi ích của Tổ quốc, của giai cấp, của dân tộc, Đảng ta không có lợi ích nào khác”[10].
Tất nhiên, người cộng sản Việt Nam có quyền tự hào chính đáng vì họ đã đi tiên phong trong cuộc đấu tranh giải phóng lâu dài và gian khổ của dân tộc, bất chấp tù lao, máy chém, chiến trường. Nhưng người cộng sản cũng là con người, nên có ưu, có khuyết, có tốt, có xấu. Cụ nói: “Đảng ta không phải trên trời sa xuống. Nó ở trong xã hội mà ra…Cũng như những người hàng ngày lội bùn mà trên mình họ có hơi bùn, có vết bùn…Cần phải tắm rửa lâu mới sạch”.[11]… “Quần chúng chỉ yêu mến những người có tư cách đạo đức. Muốn hướng dẫn nhân dân, mình phải làm mực thước cho người ta bắt chước…Muốn làm cách mạng, phải cải cách tính nết mình trước tiên”[12]. Như vậy, theo Cụ Hồ, “tính cách đặc biệt riêng” nếu có của người cộng sản, chính là phải có ý thức tự tu dưỡng, tự rèn luyện và nêu gương suốt đời.
Chính trị là lĩnh vực đầy thiên kiến, nên dễ phiến diện, cực đoan. Điều này hiếm thấy ở Cụ Hồ. Một nhà báo Mỹ của tờ Newsweek phỏng vấn Hồ Chí Minh về hệ thống một đảng có phải là tốt hay không, Cụ trả lời: “Đó là điều tốt, nếu đảng tốt. Nếu không, đó là không tốt”.[13]Cả trong cách nhìn về ông vua sáng lập triều Nguyễn cũng vậy, Cụ rất khách quan. Hãy nghe Cụ nói về vua Gia Long trong bài “ Lời than vãn của bà Trưng Trắc”: Với một tấm can trường vô song và một đức độ băng tuyết, giống như vàng mười óng ánh muôn tia đã qua ngàn lần thử lửa, ông tổ mi là Gia Long, tôn quý và tài ba bội phần, đã để lại, sau những cuộc thăng trầm và đau khổ không sao kể xiết, một đất nước giàu có, một nhân dân độc lập, một dân tộc được những kẻ mạnh kính nể, những kẻ yếu yêu mến, một tương lai đầy sức sống và đầy triển vọng”.[14]
          Theo Cụ Hồ, công việc chúng ta đang làm hôm nay - giải phóng dân tộc, xây dựng xã hội mới, bảo vệ từng tấc núi, tấc biển của Tổ quốc, không phải là cái gì đặc biệt, nó chỉ là sự nối tiếp sự nghiệp cha ông đã mở ra từ mấy nghìn năm trước. Cụ nói: Các vua Hùng đã có công dựng nước, Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước”. “Cuộc chiến đấu hiện thời của chúng ta chỉ là kết tinh của cuộc trường kỳ đề kháng mà ông cha, anh em chúng ta đã tiếp tục trong tám mươi năm Pháp thuộc.”[15] Bản Tuyên ngôn Độc lập, theo Cụ, không phải chỉ là sự kế thừa các bản “Yêu sách” và “Chương trình Việt Minh” do Cụ Hồ đã viết vào năm 1919 và 1941 mà “còn là kết quả của những bản tuyên ngôn khác của tiền bối như các cụ Thủ khoa Huân, Phan Đình Phùng, Hoàng Hoa Thám, Phan Bội Châu và… của bao nhiêu sách báo, truyền đơn bí mật viết bằng máu và nước mắt của những nhà yêu nước từ hơn tám mươi năm nay”. Nó “là hoa, là quả của bao nhiêu máu đã đổ và bao nhiêu tính mạng đã hy sinh,…là kết quả của bao nhiêu hy vọng, gắng sức và tin tưởng của hơn hai mươi triệu nhân dân Việt Nam[16], kể cả những ông vua yêu nước. Rõ ràng là không một chút biệt phái, không coi đó là công lao của riêng một bộ phận nào.
Tháng 12-1923, cuối buổi nói chuyện với O. Mandelshtam ở Maxkva, Nguyễn Ái Quốc đã không quên nhắc đến ông hoàng Duy Tân: Ở bên nước “chúng tôi còn có một cuộc “nổi dậy” nữa, do vua An Nam trẻ tuổi Duy Tân phát động, chống lại việc đưa những người nông dân của chúng tôi đến chiến trường của Pháp. Vua Duy Tân đã chạy, bây giờ ông ấy đang sống lưu vong. Hãy kể về ông ấy  nữa”.[17]
 Trong tư duy cuả Cụ Hồ luôn có sự kết hợp giưã dân và nước, giai cấp và dân tộc một cách hàì hoà, không chút thiên lệch. Trong một dự thảo kế hoạch phát động thi đua yêu nước trong kháng chiến chống Pháp của Ban Thi đua TƯ gửi lên Cụ, người viết có đề ra một khâủ hiệu “Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để chiến thắng”. Cụ gạch đi và bảo: không được chỉ nhìn thấy một phía, “ích nước nhưng còn phải lợi dân nữa”, rôì Cụ thay bằng: mục đích thi đua là “diệt giặc đói, diệt giặc dốt, diệt giặc ngoại xâm”. Sau này, thi đua đã bị biến dạng vì người ta chỉ cốt sao có nhiều thành tích để báo cáo lên trên mà quên mất lợi ích thiết thân cuả ngườ dân.
          Vào cuối cuộc kháng chiến chống Pháp, khi cuộc cách mạng ruộng đất bắt đầu được phát động, vấn đề thành phần xuất thân, quan hệ gia đình được đặt ra. Nhiều nhân sĩ, trí thức và không ít cán bộ, đảng viên có bố mẹ, họ hàng là địa chủ (hoặc bị quy là địa chủ) bắt đầu lo lắng, nhiều người hoang mang,…Hiểu được tâm trạng này, tại nhiều Hội nghị, Cụ Hồ đã đả thông hoặc viết bài đăng báo: “Trước khi ra đời, người ta không thể lựa chọn sinh ra ở giai cấp nào, gia đình nào. Thành phần giai cấp có ảnh hưởng nhất định đến tư tưởng con người, nhưng không phải là ảnh hưởng quyết định, không khắc phục được…Điều quan trọng vẫn là do bản thân mỗi người cán bộ, đảng viên,…nếu có chí khí kiên cường, tư tưởng vững chắc, lập trường dứt khoát, quyết tâm phụng sự cách mạng, phục vụ nhân dân, thật thà thi hành chủ trương, chính sách của Đảng và Chính phủ, thì nhất định đánh tan được ảnh hưởng ấy và vẫn được Đảng, Chính phủ và nhân dân tin cậy”.[18]
          Rồi Cụ đưa ra dẫn chứng: nước ta cũng như các nước khác, vẫn có những người là đại địa chủ mà làm cách mạng, hồi bí mật có bao nhiêu tiền đem giúp cho cách mạng hết, cam chịu tù đày. Trước kia, K. Marx là con nhà quý phái, F. Engels là con nhà tư bản, nhưng hai ông đã hiến dâng đời mình cho cách mạng, trở thành những người sáng lập chủ nghĩa cộng sản. Hoặc như Bành Bái, người đầu tiên tổ chức và lãnh đạo nông dân tỉnh Quảng Đông kịch liệt chống lại giai cấp địa chủ, vốn xuất thân là con nhà đại địa chủ, đại phong kiến. Họ như những đóa hoa sen, gốc rễ từ bùn đen, vươn lên mặt nước trong trẻo, hấp thụ ánh sáng mặt trời, lại trở nên tươi đẹp, ngát hương. Con người ta cũng như vậy, thành phần giai cấp xuất thân không thể ảnh hưởng xấu đến những người thật thà cách mạng.
          Tiếc rằng những ý kiến chân tình, sáng suốt ấy đã không được cấp dưới quán triệt trong thực thi chính sách, để cho “chủ nghĩa thành phần” khuynh loát, gây ra bao sai lầm đáng tiếc. Cách thuyết phục của Marx-Lénine là thuyết phục bằng lý luận, theo con đường của văn hóa phương Tây đã hình thành ngay từ thời Aristote. Hồ Chí Minh đi theo con đường của các triết gia phương Đông, kết hợp lý trí với tình cảm, tạo được sự thông cảm, giao cảm với đối tượng. Marx nói: giai cấp vô sản đứng lên làm cách mạng, nếu mất, chỉ mất xiềng xích, còn được, được cả thế giới! Còn Hồ Chí Minh lại hiểu: các nhân sĩ, trí thức, viên chức cao cấp của chế độ cũ,…đi với cách mạng thì họ mất rất nhiều: mất địa vị, danh vọng, tài sản, sự an nhàn, hưởng thụ, có khi cũng phải hy sinh cả tính mạng (như các vị Nguyễn Văn Tố, Đặng Văn Ngữ, Phạm Ngọc Thạch và nhiều người khác). Cách mạng là sự nghiệp lâu dài, gian khổ, nếu đối xử kém chân tình, chu đáo, với mặc cảm sẵn có, họ rất dễ xao lòng, mà cách mạng lại đang rất cần đến uy tín, danh vọng và tài năng của họ. Ta mới hiểu vì sao Cụ Hồ lại có sự quan tâm đối với trí thức cũ một cách ân cần, đầy ưu ái đến như vậy.
          Một đặc điểm nữa rất dễ thấy ở Hồ Chí Minh là phong cách hài hoà, nhuần nhuyễn giữa văn hoá Đông - Tây: vừa thấu hiểu Nho- Phật- Lão phương Đông, vừa am hiểu sâu sắc văn hoá Âu Tây, nhưng luôn luôn giữ vững, yêu quý và tự hào về bản sắc văn hoá Việt Nam. Cụ Hoàng Đạo Thuý đã khái quát được phong cách đặc sắc ấy trong một đoạn hồi ký sau đây:
          “Mấy nhà nho cũ thấy Cụ ngồi cạnh cái hòm nhỏ như cái tráp, hí hoáy viết, bảo rằng Cụ là một ông đồ Nghệ. Đeo kính vào nữa thì rõ ràng là một ông đốc học. Những người đi nước ngoài về, hay quen đọc sách Tây, bảo Cụ cực kỳ văn minh, như người châu Âu lịch sự ấy. Nghệ sĩ nghe Cụ nói về một tác phẩm, thấy ngay rằng Cụ là một đồng sự của mình. Cụ tiếp cụ Võ Liêm Sơn, tặng quạt, làm thơ tiễn, thì Cụ là một nhà đạo đức văn chương bậc thầy. Léo Figuère nghe Cụ nói chuyện, cảm như là đến nhà một ông bác ở bên bờ sông Seine. Tay nâng chén rượu chúc mừng, rất trang trọng, mà vung cây đũa đánh nhịp cũng vô cùng là tự nhiên”.[19] Tuỳ theo mỗi đối tượng tiếp xúc mà Cụ Hồ có cách ứng xử thích hợp.
          Cụ Hoàng kể: Năm 1951, cụ được tham dự một lớp học chính trị. Chiều hôm đó, cụ đi sớm, qua một cánh đồng để được hưởng một chút nắng, tay xách theo một cái đèn để tối còn soi đường về. Bỗng nghe phía sau có tiếng hỏi: “Ông cụ đi tìm ai thế?”. Đúng là Cụ Chủ tịch rồi! Không ngờ Cụ đến thăm lớp học, mà cũng đi đường này. Tôi nghĩ ngay rằng: thấy tôi giữa ban ngày ban mặt mà lại xách một cái đèn nên Cụ Chủ tịch mới mượn một điển tích trong triết học cổ đại Hy Lạp để hỏi đùa tôi. Xưa nhà triết học Diogène thường giữa ban ngày mà đốt đèn đi ra đường, thấy lạ, có người hỏi, ông bảo “để đi tìm một con người”! Tôi bèn thưa: “Thưa Cụ, may hơn Diogène, người ấy tôi đã tìm thấy rồi!”.
Đúng là một cuộc đối thoại hóm hỉnh mà thâm thuý giữa hai trí thức Tây học!
Người ta cũng thấy trong Cụ Hồ có sự hài hoà giữa một ông Khổng và một ông Lão, một nhập thế, một xuất thế mà vẫn chung sống được với nhau. Xuất  thân trong một gia đình khoa bảng, chàng thanh niên Nguyễn Tất Thành hăm hở vào đời với lý tưởng “phò đời. giúp nước”của Nho giáo và không  phải nhà nho nào đi theo cách mạng cũng thực hiện được lý  tưởng “tu thân, trị quốc” như Cụ. Nhưng không như mọi  nho sĩ khác: học hành, đi thi để thực hiện mong ước thường tình “nhất tử thụ quan, toàn gia tề thiên lộc” (một người làm quan, cả họ được nhờ). Còn Cụ Hồ thì ngay sau Cách mạng thành công, trả lời các nhà báo nước ngoài năm 1946, Cụ đã nói: “Tôi tuyệt nhiên không ham muốn công danh phú quý chút nào…Bao giờ đồng bào cho tôi lui, thì tôi rất vui lòng lui…Riêng phần tôi thì làm một cái nhà nho nhỏ, nơi có non xanh nước biếc để câu cá, trồng hoa, sớm chiều làm  bạn với các cụ già hái củi, em trẻ chăn trâu, không dính líu gì vào  vòng danh lợi”.[20]
Cũng theo hồi ký của cụ Hoàng, sau bữa cơm chiều ở chiến khu Tân Trào, các nhân viên CP thường ra ngồi nghỉ dọc bên Ngòi Thia, riêng Cụ Hoàng tìm đến một chỗ có nước chảy như thác. Một lát sau, Cụ Hồ cũng tìm đến ngồi bên, chỉ dòng Thia, nói với cụ Hoàng: “Tôi yêu chỗ này lắm!”, rồi hỏi:
- Cụ hay đi khắp đất nước, thế có thấy chỗ nào phong cảnh đẹp mà đất tốt không?
- Cụ định làm ruộng ư? Ai cho Cụ nghỉ đấy!
- Đến một lúc nào rồi cũng phải nghỉ chứ?
Tưởng cũng chỉ là một ước ao thôi, ai ngờ sau Hiệp định Genève, trên đường từ Việt Bắc về xuôi, nghỉ lại nơi một đồi thông xanh mướt dưới chân núi Ba Vì, giáp với bờ sông Đà cát trắng, Cụ đã tự tìm được cho mình một vùng “có non xanh, nước biếc” để sau này làm chỗ nghỉ dưỡng, “câu cá trồng hoa” và thực lòng cũng muốn được gửi hồn cốt tại vùng sông núi thanh tú vốn mang màu sắc huyền thoại này. Địa điểm đó nay đã trở thành một di tích lịch sử, một địa chỉ văn hoá, đang thu hút nhiều du khách đến thăm. Ngắm phong cảnh hữu tình, ai cũng thầm khen Cụ Hồ quả là có con mắt và tâm hồn của một bậc thi hoạ phương Đông.
          Vua Tự Đức có một nhận xét: “Lão giáo được một cái đúng là tôn tự nhiên”. Cụ Hồ chịu ảnh hưởng của triết lý “theo tự nhiên” này của Lão Tử: luôn chan hoà với thiên nhiên, không thích sống trong cảnh “gác tía, lầu son”, thích ở nhà sàn lộng gió bốn phương, phục sức giản dị, ăn uống đạm bạc. Những người được sống bên Cụ đều cho biết: chưa bao giờ thấy Cụ phàn nàn về thời tiết, mưa không bực, nắng không than, bình thản trước mọi diễn biến của đất trời, dung mạo lúc nào cũng vui vẻ, trán không nhăn, mày không nhíu, mát mẻ như mùa thu, ấm áp như mùa xuân, cứ thuận theo tự nhiên mà sống.
          Trong thơ của Cụ có trăng có hoa, có mai vàng, tuyết trắng, chim rừng về tổ, mây lượn tầng không, có hoàng hôn, nắng sớm,…Tất cả đều được nhân cách hoá, giao hoà với con người: Tiếng suối trong như tiếng hát xa, Trăng vào cửa sổ đòi thơ, Gối khuya ngon giấc bên song trăng nhòm, Trần mà như thế khác gì tiên,…Nhưng vẫn có điều khác: là tiên mà không thoát tục, vẫn luôn gắn với dân, với nước, với cuộc đấu tranh cho độc lập dân tộc và hạnh phúc của nhân dân; vẫn theo đuổi lý tưởng nhân văn cao cả, theo triết lý sống trong sạch, cao thượng, không màng vinh hoa phú quý, coi tiền tài, quyền lực, danh vị như áng phù vân.
          Khi bước vào tuổi 70, sức khoẻ kém đi, tuy vẫn còn rất minh mẫn và đang ở đỉnh cao của quyền lực, Cụ đã chủ động từng bước chuyển giao nhiệm vụ cho lớp kế cận đã được Cụ đào tạo và chuẩn bị chu đáo. Tuy danh nghĩa vẫn là Chủ tịch đảng, Chủ tịch nước nhưng không trực tiếp điều hành nữa mà thường để Bộ Chính trị bàn bạc tập thể và quyết định, Cụ chỉ góp ý, nhắc nhở và điều chỉnh khi cần thiết.
          Không tham quyền cố vị, biết chuyển giao quyền lực đúng lúc, không bao biện, làm thay, nhưng Cụ không cho phép mình nghỉ ngơi, vẫn hoạt động không mệt mỏi cho dân, cho nước, nhưng đã siêu thoát khỏi vòng danh lợi. Giữ nguyên nếp sống giản dị, vẫn áo nâu, túi vải, dép lốp, Cụ dành thời gian đi xuống với dân, biểu dương người tốt, việc tốt, bàn chuyện trồng cây gây rừng, săn sóc bữa ăn của công nhân, xuống ruộng tát nước với bà con nông dân, đón tiếp các chiến sĩ từ mặt trận miền Nam ra thăm, tặng lụa cho cụ già, vui tết Trung thu với các cháu nhỏ,…Phơ phơ tóc bạc, vóc hạc mình gầy, Cụ hiện ra trong tâm trí của người dân không phải như một vị Chủ tịch nước mà như một “ông tiên” trong truyện cổ tích.
Từ thực tiễn nghiên cứu và khám phá về Hồ Chí Minh, nhà sử học Pháp G. Boudarel đã sớm nhận ra ảnh hưởng của Lão Tử trong nhân cách, đạo đức Cụ Hồ, nên đã mượn một câu trong Đạo đức kinh làm kết luận cho bài viết về chân dung nhà chính trị châu Á này: “Người tướng giỏi thì không dùng vũ lực, người chiến đấu giỏi thì không nổi giận, người khéo thắng địch thì không cần giao tranh mà vẫn thắng, người khéo dùng người thì đặt mình dưới người ta. Đó là cái đức của sự không tranh”.[21]
 
Một tấm lòng nhân ái, khoan dung, đại lượng
          Cụ Hồ nói: “Dân tộc ta là một dân tộc giàu lòng đồng tình, bác ái” và chính Cụ là tinh hoa của tinh thần khoan dung, nhân ái Việt Nam. Khoan dung, nhân ái Hồ Chí Minh biểu hiện ở lòng yêu thương sâu sắc đối với con người, ở cái nhin rộng lượng đối với những giá trị khác biệt với mình, ở sự tôn trọng niềm tin của người khác, không áp đặt quan điểm của mình lên người khác, xa lạ với mọi thái độ kỳ thị, cuồng tín, giáo điều. Khoan dung, nhân ái Hồ Chí Minh được xây dựng trên nguyên tắc công lý, chính nghĩa, tự do, bình đẳng, nên cũng không chấp nhận thỏa hiệp vô nguyên tắc với tội ác và bất công, với tất cả những gì chà đạp lên “quyền sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc” của mỗi con người và của các dân tộc.
Đối với thực dân xâm lược, khi họ đã dùng bạo lực của kẻ mạnh để xâm lược, đàn áp kẻ yếu thì không có cách nào khác là phải dùng bạo lực cách mạng của quần chúng để giành lại độc lập và bảo vệ đất nước. Làm sao có thể “xin giặc rủ lòng thương” mà có được độc lập? Đó là chân lý được đúc kết từ mấy nghìn năm dựng nước và giữ nước của cha ông truyền lại, từ các cuộc khởi nghĩa của Bà Trưng, Bà Triệu, Lê Lợi, Trương Định, Nguyễn Trung Trực, Phan Đình Phùng, Hoàng Hoa Thám, Phan Bội Châu, Nguyễn Thái Học,… chứ đâu phải vay mượn từ học thuyết ngoại lai nào?
Do thiết tha với hòa bình, chúng ta đã nhân nhượng. Nhưng ta càng nhân nhượng, kẻ thù càng lấn tới, buộc ta phải cầm súng đứng lên tự vệ theo tinh thần “thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, không chịu làm nô lệ”. Tuy nhiên, trong chiến đấu, Cụ Hồ luôn giáo dục nhân dân ta biết phân biệt bọn thực dân xâm lược Pháp với nhân dân Pháp, giữa bọn thực dân phản động Pháp với những người còn có lương tri trong hàng ngũ của họ, nhằm chĩa mũi nhọn vào bọn đầu sỏ hiếu chiến nhất. Cụ đã làm hết sức mình để tránh không gây ra mối hận thù đối với dân tộc Pháp - một dân tộc mà Cụ luôn yêu mến và kính trọng.
          Trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc, việc dụng binh cũng là việc nhân nghĩa, nên Cụ đã tìm mọi cách để hạn chế đến mức thấp nhất những thương vong trên chiến trường, cho cả quân ta và quân địch. Cụ nói: “Trước lòng bác ái, thì máu Pháp hay máu Việt đều là máu, người Pháp hay người Việt đều là người”. Để chiến thắng, ta phải từng bước tiêu hao sinh lực địch, nhưng mục tiêu của ta là đánh bại, đánh sập ý chí xâm lược của họ, “đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào” chứ không coi việc đánh tiêu diệt hoàn toàn quân địch trên chiến trường là biện pháp duy nhất dể kết thúc chiến tranh. Ta hiểu vì sao Cụ không tán thành cách diễn đạt của một nhà thơ khi gọi trận đánh chết nhiều người là “một trận đánh đẹp”. Cụ từng nói: “Đánh mà thắng là giỏi, nhưng không đánh mà thắng lại càng giỏi hơn”. Theo tư tưởng binh pháp cha ông, Cụ chủ trương “đánh vào lòng người là hơn hết, đánh vào thành trì là thứ hai”, vì vậy Cụ rất coi trọng binh vận và địch vận, coi “khéo ngụy vận cũng là một cách tiêu diệt sinh lực địch”.
          Ngay sau Cách mạng tháng Tám, lợi dụng tình hình còn rối ren, tù trưởng dân tộc Mèo Vương Chí Sình ở Hà Giang nổi lên chống ta, giết hại một số cán bộ và người dân. Quân dân ta chuẩn bị tấn công vào sào huyệt của “vua Mèo”. Được tin, Cụ Hồ chỉ thị phải ngừng ngay lại, sau đó đích thân gửi thư mời Vương Chí Sình về Hà Nội, tiếp đãi tử tế, rồi kết nghĩa anh em, giới thiệu họ Vương ứng cử vào Quốc Hội khóa I. Kết quả là dẹp yên được cuộc nổi loạn mà không mất một viên đạn, một giọt máu nào.
          Ngày 10-6-1947, được tin tướng Raoul Salan - người đã từng tháp tùng Chủ tịch Hồ Chí Minh trong chuyến sang thăm nước Pháp năm 1946 - vừa được cử làm Tổng chỉ huy quân đội Pháp ở Đông Dương, thay cho tướng J.Valluy, Cụ Hồ liền gửi cho R. Salan một bức thư, trong đó có đoạn viết:
          “Chúng ta từng là những người bạn tốt…Nhưng hoàn cảnh ngoài ý muốn đã biến chúng ta thành hai kẻ đối địch. Điều đó thật đáng tiếc!...Về phần tôi, bổn phận thiêng liêng của một người dân yêu nước buộc tôi phải chiến đấu vì Tổ quốc và đồng bào mình. Còn về phía Ngài, trách nhiệm quân nhân cũng buộc Ngài phải làm những điều mà trái tim Ngài không muốn…Vì chúng ta buộc phải chiến đấu, thì các ngài hãy tỏ ra là những chiến binh hào hiệp, những đối thủ quân tử, trong khi chờ đợi chúng ta lại trở thành bạn hữu của nhau…Vì tình yêu thương con người, lòng nhân đạo và nhân danh tình bạn của chúng ta, tôi yêu cầu Ngài nghiêm cấm binh lính Pháp sát hại dân lành, hãm hiếp phụ nữ, đốt phá làng mạc, phá hủy nhà thờ, đền miếu như họ vẫn làm từ trước tới nay.
          Tôi bảo đảm với Ngài rằng binh lính và thường dân Pháp ở chỗ chúng tôi được đối xử rất tử tế. Tôi hy vọng người của chúng tôi trong tay các ngài cũng được đối xử như vậy”[22].
          Có lẽ, trên thế giới, hiếm có một bức thư nào gửi cho tướng giặc trước trận đánh lại được viết bằng một ngôn luận hòa ái, lịch thiệp, cao thượng và chính trực đến như vậy. Từ bạn hữu, buộc phải thành địch thủ, thì hãy chiến đấu một cách hào hiệp và quân tử, để sau chiến đấu sẽ trở lại là những người bạn. Đó mới thực sự là cuộc chiến đấu của những hiệp sĩ chân chính, vì những mục tiêu cao cả chứ không vì hận thù dân tộc hay cá nhân.
          Về phần mình, Cụ Hồ đã luôn nhắc nhở đồng bào và chiến sĩ ta cần nêu cao lý tưởng chính nghĩa, nhân đạo, hòa bình, phải có sự đối xử khoan hồng với tù binh và kiều dân Pháp, để “làm cho thế giới biết rằng ta là một dân tộc văn minh, văn minh hơn bọn đi giết người, cướp nước[23]. Một lần, đến thăm trại tù binh sau Chiến dịch Biên giới, thấy một đại úy quân y Pháp ở trần, đang run lên vì cái lạnh của núi rừng Việt Bắc, Cụ đã cới chiếc áo ngoài đang mặc, trao cho anh ta. Tinh thần nhân đạo của Cụ Hồ có sức cảm hóa sâu sắc, đã có không ít sĩ quan và binh lính Pháp phản chiến, bỏ ngũ hoặc chạy sang chiến đấu dưới ngọn cờ đại nghĩa của Hồ Chí Minh.
 Đối với nhân dân ta, Cụ Hồ khuyên phải đoàn kết chặt chẽ và rộng rãi: “Năm ngón tay cũng có ngón vắn, ngón dài…Trong mấy triệu người cũng có người thế này, thế khác, nhưng thế này hay thế khác đều dòng dõi của tổ tiên ta…Ta phải nhận rằng đã là con Lạc, cháu Hồng thì ai cũng có ít hay nhiều lòng ái quốc…Đối với những đồng bào lạc lối, lầm đường, ta phải dùng tình thân ái mà cảm hóa họ”[24].Để làm thất bại mọi âm mưu chia rẽ của kẻ thù, Cụ Hồ đã  thu phục và cảm hóa được nhiều nhân sĩ, trí thức, quan lại cao cấp của chế độ cũ tham gia chính quyền mới, như cựu Khâm sai đại thần Phan Kế Toại, Thượng thư Bùi Bằng Đoàn, Bộ trưởng Thanh niên Phan Anh, Đốc lý Hà Nội Trần Văn Lai,… và nhiều người khác. Được tin ông Trần Trọng Kim - nguyên Thủ tướng Chính phủ bù nhìn do Nhật lập nên ngày 17-4- 1945, vừa từ Huế ra Hà Nội, Cụ Hồ liền cử ông Hoàng Minh Giám đi tìm gặp, tiếc rằng khi tìm được đến nơi thì họ Trần đã cùng với gia đình vừa rời bỏ ra nước ngoài.
Tưởng cũng cần nhắc lại rằng các cuộc Cách mạng dân chủ tư sản Anh, Pháp, Nga nổ ra ở châu Âu các thế kỷ trước, vua và hoàng hậu cùng nhiều người có vai vế trong hoàng tộc đã không thoát khỏi số phận lên đoạn đầu đài! Riêng cuộc cách mạng dân chủ ở Việt Nam, cựu hoàng Bảo Đại lại được Cụ Hồ mời ra Hà Nội làm Cố vấn tối cao cho Chính phủ. Ngày 5-9-1945, vừa tiếp Bảo Đại đến chào buổi sáng, ngay chiều hôm đó, Cụ Hồ đã đến thăm ông Cố vấn tại tư dinh ở 51 đường Gambetta. Hai con người, một cụ già cách mạng gày gò, sương gió, khoác tay một ông hoàng còn trẻ, đày đặn, phương phi cùng đi dạo, nói chuyện trong sân, tạo nên một hình ảnh tương phản mà đoàn kết, hòa hợp dân tộc hiếm có trong cách mạng. Sau một thời gian ở Hà Nội, Bảo Đại viết thư về cho mẹ, khoe: “Cụ Hồ tốt lắm! Con ra đây được Cụ thương lắm! Cụ thương như con! Ả cứ yên tâm. Không phải lo chi cho con cả”[25].
Ngày 16-3-1946, Cố vấn Vĩnh Thụy tham gia phái đoàn thân thiện của Chính phủ Việt Nam thăm Trùng Khánh. Kết thúc chuyến đi, Bảo Đại tuyên bố: tôi ở lại đi du lịch, không về nước. Cụ Hồ đã biết trước ý định ấy của ông Cố vấn, nhưng vẫn tỏ ý lấy làm tiếc về sự lựa chọn của Bảo Đại. Từ cuối 1946 đến đầu 1948, Cụ Hồ đã có vài lần cải tổ Chính phủ, nhưng trong danh sách Chính phủ mới, các bộ trưởng là thành viên cũ của Việt quốc, Việt cách không bỏ chạy theo quân Tưởng, như Chu Bá Phượng, Bồ Xuân Luật, vẫn được Cụ Hồ giữ lại, kể cả ông Cố vấn Vĩnh Thụy, vói chú thích bên cạnh: “Đang ở nước ngoài vì việc riêng”! Không muốn nhịp cầu bị cắt, Cụ Hồ đã nhiều lần thuyết phục Hội đồng Chính phủ vẫn cứ gửi cho Bảo Đại một số tiền, như là phụ cấp cho ông Cố vấn đang đi công tác! Theo ông Phạm Khắc Hòe kể lại, ông Phạm Ngọc Thạch và ông đã từng được cử mang vàng và ngoại tệ sang cho Bảo Đại chi tiêu. Có lẽ do đối xử quá tốt của Cụ Hồ nên Bảo Đại đã ngập ngừng nhiều năm, đến cuối 1948 mới nhận lời Bolaert ra làm con bài cho Pháp.
Ba mươi lăm năm sau, khi đã thất thế, phải sống lưu vong ở nước ngoài, được hỏi: ông có ân hận gì không khi nhận lời ra làm cố vấn cho Chính phủ Cụ Hồ, Bảo Đại trả lời: “Không có ân hận gì cả về quyết định này, bởi lúc đó chẳng có ai, chẳng có lực lượng nào đủ sức làm cho nước Việt Nam độc lập, vinh hiển, ngoài lực lượng của Cụ Hồ”[26].
Cũng thời gian đó, vào cuối năm 1945, Ngô Đình Diệm bị quân dân ta bắt ở nam Trung bộ, giải ra Hà Nội. Biết việc này, với tư cách Chủ tịch Chính phủ, Cụ Hồ quyết định trả lại tự do cho ông ta. Ngày 15-1-1946, Cụ tiếp riêng Ngô Đình Diệm tại Bắc bộ phủ, thuyết phục ông ta đi với nhân dân, tham gia vào việc nước, nhưng ông Diệm từ chối, tuyên bố: sẽ vẫn tiếp tục chống Pháp, nhưng không thể đi với Việt Minh! Nhiều cán bộ giúp việc quanh Cụ  không đồng tình, cho ông Diệm là người thân Nhật, rất nguy hiểm. Cụ Hồ đáp: Nếu ông ta thân Nhật, thì Nhật đã tan tành rồi, còn chỗ nào mà thân nữa! Còn ông ta nói vẫn chống Pháp, nhưng không đi với Việt Minh, thì cứ thả ông ta ra để ông ấy chống Pháp theo kiểu của ông ấy!
Cuộc tiếp kiến đã để lại cho ông Diệm một ấn tượng sâu sắc. Có lẽ vì vậy mà con người chống cộng cực đoan này chưa một lần nào có lời lẽ thất lễ với Chủ tịch Hồ Chí Minh. Sau này, trong một cuộc trò chuyện thân mật với anh Hai Nhạ tại Dinh Gia Long, ông Diệm vẫn nhớ lại hình ảnh mảnh dẻ, giản dị, phong sương của Cụ Hồ trong buổi tiếp: Cụ mặc quần soóc, chân đi dép cao su trắng, với điếu thuốc lá trên môi, nhưng lời nói và cử chỉ thì rất mực lịch thiệp. Ông Diệm có thốt ra với Vũ Ngọc Nhạ một câu: “Cụ Hồ là bậc đại nghĩa, còn qua là người tiểu khí. Nhưng nếu qua nhận lời cộng  tác với cụ Hồ thì qua biết ăn nói thế nào với dòng họ Ngô về cái chết của anh tôi và cháu tôi bởi tay Việt Minh”?[27] Cũng có thể tin đó là một lời nói thực lòng.
          Đối với các tôn giáo, Cụ Hồ thành thật tôn trọng đức tin của người có đạo, khẳng định lẽ sống cao đẹp, những giá trị đạo đức- nhân văn của các vị sáng lập, không hề bài bác, phủ định mà biết tìm ra cái chung giữa lý tưởng của các tôn giáo với mục tiêu giải phóng dân tộc, mưu cầu hạnh phúc cho nhân dân mà chúng ta đang theo đuổi. Về Đức Phật, Cụ viết: “Đức Phật là đại từ, đại bi, cứu khổ, cứu nạn; muốn cứu chúng sinh ra khỏi khổ nạn, Người phải hy sinh tranh đấu diệt lũ ác ma”[28].
          Về Chúa Giêxu, Cụ viết: “Gần 20 thế kỷ trước, một vị thánh nhân đã ra đời. Cả đời Người chỉ lo cứu thế, độ dân, hy sinh cho tự do, bình đẳng”. Cuối bức thư chúc mừng lễ giáng sinh, Cụ hô: “Thượng đế và Tổ quốc muôn năm!”[29]. Mùa hè năm 1946, tại Paris, Cụ Hồ tiếp môt nhóm linh mục công giáo đến thăm, trong đó có linh mục Cao Văn Luận - một tín đồ công giáo xác tín . Sau này, ông  đã thuật lại trong hồi ký của mình lời của Cụ Hồ trong buổi gặp: “Chính phủ bên nước nhà đang theo đuổi mục tiêu tranh thủ độc lập, đem hạnh phúc lại cho toàn dân. Nhưng muốn đem hạnh phúc cho toàn dân, thì phải thực hiện xã hội chủ nghĩa. Giả sử mà chúa Giêxu sinh ra vào thời đại này, trước sự đau khổ của người đời như lúc này, mà Chúa muốn cứu vớt, thì chắc là cũng phải theo xã hội chủ nghĩa”[30].  
Cụ luôn nêu cao tinh thần khoan dung tôn giáo, phấn đấu hết mình cho đoàn kết Lương - Giáo trong đại đoàn kết dân tộc.Tại cuộc họp mặt các đại biểu tôn giáo, đảng phái tại Chùa Bà Đá Hà Nội, mừng Chính phủ Liên hiệp Lâm thời vừa thành lập, do Cố vấn Vĩnh Thụy chủ trì, Cụ Hồ nói: “Nước Phật ngày xưa có những bốn đảng phái, làm ly tán lòng dân và hại Tổ quốc. Nhưng nước Việt Nam ngày nay chỉ có một đảng phái là toàn dân quyết tâm giành độc lập. Tín đồ  Phật giáo tin ở Phật, tín đồ Gia tô giáo tin ở Đức Chúa Trời, cũng như chúng ta tin ở đạo Khổng. Đó là những vị chí tôn nên chúng ta tin tưởng. Nhưng đối với nhân dân, chúng ta đừng có làm gì trái ý dân. Dân muốn gì, chúng ta phải làm nấy”[31] .
          Nói về khoan dung tôn giáo của Hồ Chí Minh, chính J. Sainteny thừa nhận: “Về phần tôi, phải nói rằng chưa bao giờ tôi có cớ để thấy nơi chương trình của Cụ Hồ Chí Minh một dấu vết nào, dù rất nhỏ, của sự công kích, đa nghi, hoặc chế diễu bất kỳ một tôn giáo nào”[32].
 
Một phong cách ứng xử chân thành, khiêm tốn, lịch lãm.
          Trong cuộc đời oanh liệt và phong phú của mình, Cụ Hồ đã trải qua bao bước thăng trầm của hoàn cảnh, với bao tình huống éo le, phức tạp phải giải quyết; đã gặp gỡ, tiếp xúc với đủ hạng người sang hèn trong xã hội, từ đồng bào trong nước đến bạn bè quốc tế năm châu, từ những lãnh tụ hàng đầu của cách mạng thế giới đến những tên thực dân cáo già quỷ quyệt,…qua đó Cụ đã để lại cho chúng ta một tấm gương quý giá về văn hóa ứng xử.
          Vĩ nhân, thật vĩ nhân, bao giờ cũng rất mực giản dị, khiêm tốn, lịch lãm. Cuộc đời cách mạng phi thường cùng tấm gương đạo đức vô song đã đưa Cụ Hồ lên hàng những nguyên thủ quốc gia có uy tín và danh vọng lớn trên thế giới. Tuy nhiên, trong những cuộc tiếp xúc, người ta lại thấy Cụ luôn nhã nhặn, khiêm tốn, không bao giờ đặt mình cao hơn người khác nhưng lại quan tâm rất mực tế nhị và chu đáo đến những người chung quanh.
          Linh mục Cao Văn Luận có đôi lần được dự các buổi tiếp tân của Cụ Hồ ở Paris năm 1946, phần đông thuộc lớp tinh hoa Pháp-Việt, kể lại: “Cụ Hồ bước ra, bắt tay mọi người, nói chuyện phiếm. Tôi phải công nhận Cụ Hồ là một người hiểu biết rộng rãi. Vấn đề gì Cụ cũng có thể nói chuyện sơ qua và tỏ ra hiểu biết…Dù mọi người kính nể Cụ Hồ, nhưng trong câu chuyện, đôi lúc cố ý, đôi lúc vô tình, họ không khỏi nêu lên những vấn đề khó khăn, có thể làm cho người được hỏi lâm vào thế kẹt. Tôi chưa lúc nào thấy Cụ Hồ bị kẹt như thế”. “Cụ Hồ nói chuyện thân mật với các thiếu phụ, đàn bà Pháp rất tự nhiên. Cụ tự tay hái những bông hồng đẹp nhất cài lên áo, lên tóc những bà mệnh phụ tham dự kèm theo những lời khen áo đẹp, những câu ca tụng nước Pháp… Người Pháp có cảm tình với Cụ nhiều lắm”[33].
          Sau Hiệp định Genève, ông Sainteny được Chính phủ Pháp cử làm Tổng Lãnh sự Pháp đầu tiên tại Hà Nội. Đối với ông, cuộc gặp lại đầu tiên sau mười năm với kẻ chiến thắng, là một việc khó khăn. Ông kể: “Chúng tôi cũng mất đến một phút nặng nề trôi qua, không, không đến một phút đâu…có lẽ chỉ vài giây thôi, rồi Cụ Hồ tiến lại phía tôi mà nói rằng: “Nào, chúng ta phải ôm hôn nhau đi chứ!”.Và chúng tôi đã ôm hôn nhau. Chính lúc đó, Cụ nói với tôi: “Chúng ta đã đánh nhau, đánh nhau quá nhiều, song rất trung chính. Bây giờ cần quên đi tất cả những cái đó, cần cùng nhau làm việc…”[34].Thật là một cách ứng xử tuyệt vời! Người chiến thắng không hề tỏ ra một chút vênh vang, kênh kiệu nào mà chủ động giơ tay ra trước, nhanh chóng xóa bỏ phút nặng nề cho đối phương bằng một cử chỉ chân thành, lịch lãm.
          Khách quốc tế từng một lần được tiếp xúc với Hồ Chí Minh đều có một cảm nhận chung: Cụ chủ động xóa bỏ mọi nghi thức, đến thẳng với trái tim con người bằng một tình cảm thân mật, gần gũi, tự nhiên, không chút gắng gượng. Chỉ một câu nói đùa, một cử chỉ thân mật, một lời hỏi thăm chân tình,…Cụ đã xóa đi ngay mọi ngăn cách, tạo ra một không khi thoải mái, ấm áp, như trong một gia đình.
          Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, Cụ Hồ có cuộc gặp mặt với các nhà văn, nhà báo nước ngoài đã tham gia chỉến dịch. Cụ dùng tiếng Nga, tiếng Pháp hỏi thăm tình hình sinh hoạt, sức khỏe của các nhà báo phương Tây. Khi giới thiệu đến nhà văn Đới Hoàng, Cụ dùng tiếng Trung Quốc hỏi: - “Ở Điện Biên Phủ, làm sao đồng chí ngã ngựa thế, giờ đồng chí đã khỏi chưa?”. Nhà văn Đới Hoàng kể lại: “Khi nghe hỏi thế, tôi không hề ngạc nhiên, vì đối với ai, Người cũng có tấm lòng của người mẹ hiền. Nhưng tôi không khỏi không cảm động: một chuyện nhỏ như thế mà sao cũng đến tai Người và Người lại nhớ lâu đến thế!”[35].
          Mùa xuân 1969, Đoàn đại biểu Ủy ban Việt Nam của CHDC Đức thăm Việt Nam, được đến chào Chủ tịch Hồ Chí Minh. Lúc này sức khỏe của Cụ đã yếu đi nhiều. Thấy các vị khách tỏ vẻ lo lắng, Cụ mỉm cười đôn hậu: “Các đ/c đừng lo, tôi vẫn ăn ngủ, làm việc bình thường”. Rồi Cụ hỏi một cách thân mật: -“Các chú có thấy lạnh không”? Tất cả đều trả lời “không”, vì với người Đức, tháng giêng ở Việt Nam quả là không lạnh. -“Không lạnh, nhưng rất nguy hiểm”. Nói xong, Cụ cởi chiếc khăn quàng của mình, quàng cho ông Mác Dêphrin - Chủ tịch Ủy ban Việt Nam, hôm ấy đang húng hắng ho. “Cử chỉ ấy làm cho ai nấy đều cảm động, nó thể hiện tình cảm của một người cha đối với những đứa con từ xa về”[36].
          Là một người hoạt động quốc tế lịch lãm nhưng Cụ Hồ không mấy câu nệ về hình thức, không để bị ràng buộc bởi những nghi lễ ngoại giao trang trọng, cứng nhắc mà thường có cách ứng xử linh hoạt, biến hóa, đem lại hiệu quả thú vị, gây ngạc nhiên cho tất cả mọi người.
          Năm 1959, Cụ Hồ sang sân bay Gia Lâm đón Tổng thống Ấn Độ, khi đó Ấn Độ đang giữ vai trò quan trọng là chủ tịch Ủy ban kiểm soát và giám sát quốc tế ở Việt Nam. Vị tổng thống cao tuổi này đã đọc một bài diễn văn không được hấp dẫn lắm trước quần chúng đón tiếp tại sân bay. Bỗng người ta thấy Cụ Chủ tịch gạt người phiên dịch sang một bên và nói: “Tổng thống phát biểu thì Chủ tịch phiên dịch mới hợp”. Rồi bằng một cách khéo léo kỳ lạ, Cụ đã dịch những câu tiếng Anh tẻ nhạt kia thành những câu tiếng Việt hấp dẫn, gây hào hứng, sôi nổi cho người nghe. Tiếng hoan hô, vỗ tay nổi lên như sấm. Buổi đón tiếp đã thành công mĩ mãn. Vị tổng thống nước bạn tỏ ra rất xúc động trước nhiệt tình, mến khách của nhân dân Việt Nam .
          Một nét đặc sắc trong văn hóa giao tiếp, nó cắt nghĩa sự thành công và khả năng chinh phục của Cụ Hồ, là Cụ luôn xuất hiện với một nụ cười, trong ánh mắt hoặc trên đôi môi. Ai đã đọc văn thơ Cụ đều từng biết đến những nụ cười nhiều cung bậc trong Ngục trung nhật ký. Trong ứng xử đời thường, sự hóm hỉnh, năng khiếu hài hước ấy càng được thể hiện đa dạng, phong phú hơn, để đùa vui, để nhắc nhở, châm biếm, giáo dục và nhất là để xóa đi cái cách bức, cái trịnh trọng không cần thiết, nhằm tạo ra không khí giao hòa, gần gũi giữa lãnh tụ với quần chúng.
          Cụ Hồ rất thich vui với quần chúng. Phải nói Cụ là người vui tính và dí dỏm nữa. Vì vậy, thường thấy mỗi khi Cụ Hồ xuất hiện ở đâu là ở đó rộn lên niềm vui và tiếng cười hồ hởi không dứt. Những năm kháng chiến ở Việt Bắc, để tạo ra không khí vui vẻ trong sinh hoạt kháng chiến nơi “u tì quốc”, Cụ Hồ nói với cụ Hoàng Đạo Thuý tổ chức một đêm lửa trại, vì cụ Hoàng vốn là một huynh trưởng Hướng đạo sinh biết nhiều trò chơi. Cụ Hoàng ngần ngại: chỉ có mấy cụ già và mấy ông bộ trưởng bận bịu, lửa trại khó vui lắm. Cụ Hồ đáp: sẽ vẫn vui đấy. Cụ Hoàng nảy ý tinh nghịch: nếu tôi làm “trùm lửa” thì ai cũng phải nghe tôi đấy!- Nhất định rồi! Cụ Hồ tủm tỉm cười, chắc đã hiểu được ý cụ Hoàng.
          Lửa trại bùng lên. Ngồi quanh Cụ Hồ là các cụ Tôn Đức Thắng, Phan Kế Toại, Phạm Bá Trực,…vài chục ông bộ, thứ trưởng và các nhân viên CP. Khai mạc lửa trại, cụ Hoàng đến trước mặt cụ Hồ, chắp tay: Xin mời Cụ Chủ tịch hát mở đầu lửa trại! Thấy Cụ Hồ bị “bỏ bom”, mọi người vừa thích thú, vừa lo ngại. Không chút ngần ngừ, Cụ nhẹ nhàng đứng dậy, vừa đi quanh lửa trại, vừa lên tiếng hát: “Anh hùng xưa, nhớ hồi là hồi niên thiếu, dấy binh lấy lau làm cờ, quên mình là mình giúp nước…”. Già trẻ ai nấy con mắt long lanh, âu yếm nhìn Cụ Chủ tịch của mình. Thế là cuộc lửa trại bắt đầu vui lên.
          Một lần khác, bác sĩ Trần Duy Hưng được cử làm “trùm lửa”, cũng muốn thử    trêu Cụ một cách trìu mến, xem Cụ có bí không. Ông giang hai tay giả làm máy bay, miệng kêu “ù ù’ rồi “hạ cánh”, chụm tay bắc loa: Alô, alô! Thưa đồng bào tp Hồ Chí Minh, Cụ Chủ tịch bay vào thăm đồng bào, xin mời Cụ Chủ tịch ra nói chuyện…Cụ nhổm dậy, nói ngay: “Thưa đồng bào, tôi đi máy bay vào, hơi bị mệt, xin để bác sĩ Trần Duy Hưng thay tôi nói chuyện với đồng bào!” Lúc đó, đâm ra chính ông trùm lửa bị bí chứ không phải là Cụ Hồ.
Năm 1955, Hà Nội vừa giải phóng được ít lâu, Cụ Hồ đến thăm NHA MAY CO KHI GIA LAM. Tấm biển trên cổng ra vào sơn chữ to nhưng không có dấu. Vào nhà máy, mở đầu câu chuyện với anh chị em công nhân, bỗng Cụ hỏi: “Nhà máy các cô, các chú ʻcó khỉʼ à?” Mọi người ngơ ngác nhìn nhau, không hiểu thế nào mà Cụ lại hỏi về chuyện “khỉ” thế này! Không ai trả lời được. Cụ giục: “Thế nào, trên biển nhà máy đề ʻcó khỉʼ cơ mà?”.- Dạ thưa, có đâu ạ. Cụ cười: “Có đấy! Biển nhà máy cơ khí Gia Lâm của các cô, các chú viết bằng chữ quốc ngữ mà không có dấu, nên Bác đọc nhầm là “nhà máy có khỉ” mà khỉ lại… “già lắm”! Cuộc gặp gỡ đã được mở đầu rất vui. Ai cũng được hưởng một trận cười sảng khoái và nhận được một lời phê bình nhẹ nhàng mà thấm thía.
          Mùa hè năm 1957, trong chuyến đi thăm Quảng Bình, Cụ Hồ và những người cùng đi dùng bữa cơm trưa tại Đồng Hới. Bữa cơm có những món đặc sản miền Trung: mắm tôm chua, rau muống chẻ, cá thu kho,…Mọi người ăn uống một cách ngon lành, thích thú. Cụ Hồ chỉ tay sang bác sĩ Nhữ Thế Bảo - bác sĩ riêng của mình - nói đùa: “Bác sĩ khuyên mọi người nên ăn chín, uống sôi, còn bản thân mình thì ăn rau sống hơi nhiều đấy”! Mọi người cười vang, bữa ăn càng thêm vui vẻ.
          Không chỉ đùa vui người khác, đôi lúc Cụ cũng nói đùa về bản thân mình. Những bài thơ “tự trào” trong Nhật ký trong tù cho thấy Cụ đã đứng cao hơn mọi đau khổ, bệnh tật mà kẻ thù cố tình đày đọa Cụ như thế nào, ta đã biết. Trong kháng chiến chống Pháp, có lần Cụ đội mưa to, đi bộ hàng mấy cây số, đến thăm và động viên một lớp học chính trị của trí thức. Giữa lúc mọi người đang thất vọng vì thấy mưa rừng to quá, chắc Cụ không đến được, thì trong chiếc áo mưa sũng nước, quần sắn quá đầu gối, nón lá đội đầu, Cụ hiện ra trong niềm ngạc nhiên, hân hoan và vui sướng của tất cả mọi người. Tiếng hô “Hồ Chủ tịch muôn năm” rộn vang cả rừng núi.. Cụ bước lên diễn đàn, giơ tay bảo ngừng, nói: “Muôn năm làm cái gì? Trăm năm đã là quá. Còn bây giờ, Bác chỉ “muốn nằm” một tí thôi!”.
          Năm 1946 tại Paris, sau khi đặt vòng hoa viếng mộ “người chiến sĩ vô danh”, xe đưa Cụ qua đại lộ Champs - Élysées, trở về khách sạn. Vị quan chức tháp tùng Cụ, nói: “Thưa Chủ tịch, đã có rất đông người đang đứng xem Ngài đi qua!”.Cụ Hồ bật cười đáp: “Chắc hẳn là thế ông ạ! Người ta muốn xem hề Charlot Việt Nam đấy mà!”.[37]
          Chính ở đây bộc lộ một nét cao thượng trong nhân cách Hồ Chí Minh, điều mà giới trí thức và chính khách phương Tây rất hâm mộ: ở Hồ Chí Minh tuyệt nhiên không hề có một vết gợn nào của tệ sùng bái cá nhân. Không ít người cầm quyền làm cho người dân bình thường khi được dịp đến gần có cảm giác như bị nghẹt thở, nhưng với Hồ Chí Minh thì, như một nhà thơ đã khái quát  trong một câu thơ để đời: “Đến bên Người, ta thở dễ dàng hơn”![38] Cụ Hồ đã đem lại hình ảnh mới về một vị Chủ tịch thực sự của nhân dân.
          Sau những ngày được đến Việt Bắc, được gặp gỡ, tiếp xúc với Cụ Hồ vào thời gian cuối cuả cuộc kháng chiến chống Pháp, kết thúc bàì bút ký của mình, nhà báo Mỹ R. Shaplen đã viết: “Trong rừng Việt Bắc, Cụ Hồ như một ông tiên. Nêú có ai bảo đây là một ngườì cộng sản thì tôi có thể nói Cụ là một ngườì cộng sản khác với quan niệm mà ta vẫn thường nghĩ và theo tôi có thể dùng một từ mới : một người cộng sản phương Đông, một ngườì cộng sản Việt Nam”[39]./.
 
 
 
[1] Térence ( 190-159 TCN), nhà thơ, nhà viết hài kịch Lamã cổ đại. Nguyên văn chữ la tinh: “Nihil humani a me alienum puto”.
[2] Hồ Chí Minh TT, xuất bản lần 2, 1995-1996, t.5, tr. 428. Các trích dẫn của Hồ Chí Minh, đều lấy từ lần xuất bản này.
[3] Hồ Chí Minh TT, sđd,  t.4, tr. 350.
[4] Hồ Chí Minh TT, t. 5, tr. 643-644
[5] Hồ Chí Minh TT, t. 4, tr. 357 và  267. Trong Kinh Cựu ước cũng như trong Tân ước và cả trong Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền, sau trở thành Hiến pháp 1793 của nước Pháp, ở điều 6, đều có một câu mang nội dung  tương tự: “Ne fais pas autrui ce que tu ne veux  pas  qu’il te soit fait”(Chớ làm cho người khác điều ta không muốn người khác làm cho mình).
[6] Hồ Chí Minh TT, t.4, tr. 65.
[7] Hồ Chí Minh TT, t. 5, tr. 129.
[8] Việt Phương: Cửa mở, Nxb Văn Học, H,.1970, tr. 58.
[9] “Chúng ta, những người cộng sản, chúng ta là những người có một tính cách đặc biệt riêng. Chúng ta được cấu tạo bằng một chất liệu đặc biệt riêng. Chúng ta họp thành đạo quân của nhà chiến lược vô sản vĩ đại- đạo quân của đồng chí Lênin…” (Điếu văn của Staline đọc trong lễ truy điệu Lênin, tháng 1-1924 tại Maxkva).
[10] Hồ Chí Minh TT, t. 9, tr.555.
[11] Hồ Chí Minh TT, t. 5, tr. 263.
[12] Hồ Chí Minh TT, t. 5, tr. 552.
[13] Bài đăng trên Newsweek ra ngày 25-04-1959. Dẫn lại theo P. Brocheux : “Ho Chí Minh, a biography”, tr. 185.
[14] Nguyên văn tiêng Pháp: “Avec un courage invincible et une vertu immaculée, qui furent comme le vrai or qui brille avec mille éclairs après avoir subir mille épreuves du feu, ton aïeul Gia Long, plusieurs fois noble et valeureux, vous a laissé, après des péripéties et des souffrances inocalculables, un pays riche, un peuple indépendent, une nation respectée par les forts et aimée par les faibles, un avenir plein de vie et d’évolution”. (Les lamentations de Trung Trac, đăng trên L’Humanité, ngày 22-06-1922 ). Bài này do Phạm Huy Thông dịch, lần đầu tiên in trong  “Truyện và Ký” của Nguyễn Ái Quốc, nhưng dịch giả hay NXB Văn học, đã lược đi 2 đoạn, trong đó có đọan này. NXB Sự Thật đã đưa nguyên văn bản dịch cuả Phạm Huy Thông vào Hồ Chí Minh TT, t.1,  xb lần thứ nhất, năm 1980.
[15] Hồ Chí Minh TT, t.4, tr. 87.
[16] Trần Dân Tiên: Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ Tịch, Văn Học, 1970, tr. 110.
[17] Hồ Chí Minh TT, t. 1, tr. 479.
[18] Xem bài Hoa sen, Hồ Chí Minh TT, t.8, tr. 139-140.
[19] Hoàng Đạo Thuý: Hồi ký “Theo Bác”, viết năm 1985, lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh .
[20] Hồ Chí Minh TT, s đ d, t. 4, tr. 161.
[21] Hommes d’état d’Asie et leur politique, bài viết về Ho Chi Minh của G. Boudarel, Académie de Paris, Université René Descartes,  2 – 1980, p. 129. Lời dịch tiếng Việt, tôi dựa theo bản dịch của Thu Giang Nguyễn Duy Cần.
[22] Hồ Chí Minh TT,t. 5. tr. 141-142.
[23] Hồ Chí Minh TT, t. 4, tr. 28.
[24] Hồ Chí Minh TT,t. 4. tr. 246.
[25] Dẫn lại theo Phạm Khắc Hòe: “Từ triều đình Huế đén chiến khu Việt Bắc”, Nxb Thuận Hóa, Huế,1987, tr. 117.
[26] Trả lời phỏng vấn của GS Ngô Vĩnh Long, trong phim “Việt Nam, một thiên lịch sử truyền hình”.
[27] Câu chuyện này do ông Trần Quốc Hương (tức Mười Hương, nguyên Bí thư TƯ Đảng, người trực tiếp chỉ đạo mạng lưới tình báo chiến lược ở Miền Nam thời chống Mỹ, trong đó có Vũ Ngọc Nhạ), nói với tác giả trong một buổi làm việc tại nhà riêng của ông ở tp Hồ Chí Minh, đầu năm 2004.
[28] Hồ Chí Minh TT, t.5, tr.197.
[29] Sđd, t. 4, tr. 490
[30] LM Cao Văn Luận: “Bên giòng lịch sử 1940-1965”, Hồi ký, chương 8 “Ba lần gặp gỡ Hồ Chí Minh”
(Theo bản trên mạng vantuyen.net/).
[31] Hồ Chí Minh TT, t. 4, tr. 148.
[32] J. Sainteny : “Đối diện với Hồ Chí Minh “, Seghers, Paris, 1970, tr. 155-156.
[33] LM Cao Văn Luận: “Ba lần gặp gỡ Hồ Chí Minh “, trong Hồi ký đã dẫn.
[34] J. Sainteny: “Un accord sans lendemain”, Planète Action, Mars 1970, p.100.
[35] Đới Hoàng: Ấn tượng về Chủ tịch Hồ Chí Minh, Nxb Thông tục độc vật, Bắc Kinh, 1956, tr.90 (Trung văn).
[36] Một giờ với đồng chí Hồ Chí Minh, Nxb Thanh niên, H, 1985, tr.188-189.
[37] Dẫn theo Hữu Ngọc: Phác thảo chân dung văn hóa Pháp, Nxb Ngoại văn, H, 1991, tr..23.
[38] Việt Phương, Cửa mở, sđd, tr. 96.
[39] Robert Shaplen : “The enigma of Ho Chi Minh”, The Reporter, số ra ngaỳ 27-01-1955, từ trang 11 đến 20.

Tác giả gửi ngày 7-5-12
 

Tuesday, May 8, 2012

BÀN VỀ VĂN HÓA KINH DOANH

Nguyễn Trần Bạt
Văn hóa luôn là môi trường tinh thần của cuộc sống trong bất cứ cộng đồng xã hội nào. Văn hóa kinh doanh cũng vậy, càng ngày xã hội càng nhận thức được vai trò quan trọng của nó trong đời sống, đặc biệt là trong hoạt động kinh doanh. Tuy nhiên, khi nói đến văn hóa kinh doanh, người ta vẫn có nhiều cách hiểu rất khác nhau.
 1. Tính tất yếu của văn hóa kinh doanh
Văn hóa luôn là môi trường tinh thần của cuộc sống trong bất cứ cộng đồng xã hội nào. Văn hóa kinh doanh cũng vậy, càng ngày xã hội càng nhận thức được vai trò quan trọng của nó trong đời sống, đặc biệt là trong hoạt động kinh doanh. Tuy nhiên, khi nói đến văn hóa kinh doanh, người ta vẫn có nhiều cách hiểu rất khác nhau. Có quan điểm cho rằng: Nói đến kinh doanh là nói đến những hoạt động thu lợi nhuận mà để có lợi nhuận, con người thường có xu hướng xâm hại đến lợi ích của người khác. Còn nói đến văn hóa là nói đến cái tốt, cái đúng, nói đến đạo đức, thẩm mỹ và những gì tốt đẹp nhất. Cho nên cần phải làm thế nào đó để đưa nhân tố văn hóa vào kinh doanh để làm cho hoạt động kinh doanh lành mạnh hơn và ngược lại, đưa các nhân tố kinh doanh vào văn hóa mà không làm tổn hại đến văn hóa. Cách hiểu như vậy đưa đến một kết luận là muốn cho hoạt động kinh doanh lành mạnh thì phải đưa các yếu tố văn hóa vào đời sống kinh doanh. Điều đó có nghĩa là, phải xây dựng văn hóa kinh doanh. Chính vì thế mà trong xã hội đang xuất hiện phong trào xây dựng văn hóa doanh nhân, văn hóa doanh nghiệp, với mục đích là dùng yếu tố văn hóa để gia tăng giá trị thẩm mỹ và đạo đức cho cộng đồng kinh doanh.

Ở đây chúng tôi tiếp cận vấn đề theo cách khác. Theo quan điểm của chúng tôi, khi con người gieo hành vi tất yếu sẽ có văn hóa. Văn hóa chính là kiểu dáng, chất lượng của hành vi, là vũ điệu, là âm nhạc của hành vi. Văn hóa giống như những hạt phù sa lắng đọng một cách tự nhiên trong tất cả các lĩnh vực của đời sống con người. Văn hóa kinh doanh cũng như văn hóa nói chung, là một tất yếu. Bởi vì kinh doanh là một hoạt động bản năng của con người, là quá trình diễn ra liên tục trong đời sống con người. Những gì lắng lại sau các chuỗi hành vi liên tục ấy chính là văn hóa kinh doanh. Trong kinh doanh luôn có mặt yếu tố văn hóa, chúng luôn đan xen và có tác động qua lại. Vấn đề là phải nhận biết được văn hóa kinh doanh mà chúng ta đang có như thế nào. Văn hóa  kinh doanh ấy lạc hậu hay tiên tiến? Văn hóa ấy có khả năng thúc đẩy một cách tích cực sự phát triển của hoạt động kinh doanh hay sự phát triển của nền kinh tế không? Văn hóa kinh doanh ấy có khuyết tật gì làm cản trở sự phát triển của cộng đồng kinh doanh không?

Văn hóa, nhìn chung, hình thành từ sự tích lũy kinh nghiệm sống của một cộng đồng, một dân tộc, do đó văn hoá chính là cuộc sống. Quá trình hình thành văn hóa là một quá trình tự nhiên và khách quan. Văn hóa thể hiện sự chấp nhận lẫn nhau và chấp nhận sự bình đẳng giữa các thành tố cấu tạo ra cuộc sống, nói cách khác, nếu không có sự chấp nhận lẫn nhau và bình đẳng giữa các thành tố cấu tạo ra cuộc sống thì không có văn hoá lành mạnh. Trong quá trình đi đến sự chấp nhận đó chắc chắn không thể thiếu sự đấu tranh bình đẳng của các thành tố. Yếu tố đảm bảo sự hợp pháp của quá trình đấu tranh và hoà hợp giữa các yếu tố của cuộc sống không gì khác chính là tự do. Tự do đem lại cho con người sự phong phú về nhận thức và đến lượt mình, sự phong phú về nhận thức sẽ tạo ra sự đa dạng về khuynh hướng. Trong một môi trường có sự bình đẳng giữa các khuynh hướng, con người được tự do nhận thức và đi đến thoả thuận. Trạng thái tự do sẽ là động lực cho sự sáng tạo của con người và chính những đóng góp đẹp đẽ đó của con người đã tạo ra nền văn hóa lành mạnh với tư cách là sản phẩm của tự do. Ở đâu nền văn hóa có tính đa dạng, ở đâu sự tồn tại của các khuynh hướng của cuộc sống được tôn trọng thì ở đó có tự do và khi đó văn hóa là hệ quả của tự do. Văn hóa ấy hỗ trợ cuộc sống và chính là môi trường tinh thần của tất cả những gì còn lại của cuộc sống. Ngược lại, nếu tác động vào văn hóa theo xu hướng áp đặt bằng các công cụ quyền lực sẽ phá vỡ qui luật hình thành tự nhiên của văn hóa. Sự can thiệp này đe dọa đến tính đa dạng tự nhiên của văn hóa, mà xét về bản chất, chính là tiêu diệt tính đa dạng của đời sống tinh thần của con người. Khi bị áp đặt về nhận thức thì con người phản ánh một cách đơn giản về cuộc sống. Sự phản ánh cuộc sống một cách đơn giản của con người bằng cả hành vi lẫn tư duy, đến lượt mình, tạo ra sự đơn giản của nền văn hóa hay tạo ra một nền văn hóa phi tự nhiên.
Văn hóa kinh doanh cũng vậy, nếu được hình thành theo những qui luật tự nhiên của văn hóa, nó sẽ trở thành một môi trường tinh thần lý tưởng cho hoạt động kinh doanh. Ngược lại, nếu được hình thành từ những đòi hỏi phi tự nhiên, những kế hoạch phi tự nhiên trong việc quản lý đời sống kinh doanh chắc chắn sẽ trở thành một loại văn hóa phi tự nhiên, gây ra rất nhiều hậu quả nguy hiểm cho đời sống kinh doanh.
2. Đặc điểm văn hóa kinh doanh Việt Nam
Văn hóa kinh doanh được hình thành từ hai phương diện cơ bản của cuộc sống là văn hóa và kinh tế. Về mặt kinh tế, văn hóa kinh doanh phản ánh toàn bộ các hoạt động của đời sống kinh doanh trong nền kinh tế, chính vì vậy sự hình thành của văn hóa kinh doanh phụ thuộc chủ yếu vào những đặc điểm của đời sống kinh doanh và trạng thái của nền kinh tế.
Là một quốc gia đang phát triển, Việt Nam có những đặc điểm chung của nhóm quốc gia này, đó là nền kinh tế vẫn chưa được giải phóng một cách thật sự ra khỏi sự ràng buộc của chính trị. Chính trị vẫn tiếp tục can thiệp đáng kể vào đời sống kinh doanh hàng ngày. Điều này rất dễ tạo ra rủi ro cho nền kinh tế. Chính trị thuộc về thượng tầng kiến trúc của đời sống xã hội, nó thường biến đổi liên tục do thay đổi chu kỳ cầm quyền từ những nhà chính trị này sang những nhà chính trị khác. Một hệ thống chính trị sẽ được điều hành, một nguyên lý sẽ được vận dụng rất khác nhau tuỳ theo cá nhân các nhà chính trị. Nếu như để cho đời sống kinh doanh lệ thuộc quá nhiều vào chính trị thì mọi hoạt động của đời sống kinh doanh sẽ quay cuồng như người ta thay đổi bản nhạc. Chẳng hạn như việc lựa chọn mô hình kinh tế. Các mô hình kinh tế hiện nay vẫn được lựa chọn dựa trên tiêu chuẩn chính trị nhiều hơn là các tiêu chuẩn hay đặc thù kinh tế. Sự lựa chọn mô hình kinh tế có ảnh hưởng đến nhiều mặt của cuộc sống, bởi vì chọn mô hình kinh tế nào, người ta sẽ phải đào tạo người lao động theo mô hình ấy. Người ta cũng phải đào tạo các nhà quản lý, xây dựng hệ thống pháp luật và xây dựng môi trường cho đời sống kinh doanh dựa vào các đòi hỏi của mô hình đã chọn. Nếu mô hình kinh tế thay đổi theo những nguyên lý chính trị khác nhau của từng chu kỳ cầm quyền thì sẽ kéo theo sự thay đổi trên nhiều mặt của cuộc sống, khiến cuộc sống trở nên bất ổn. Hơn nữa, mỗi một mô hình kinh tế nếu được lựa chọn dựa trên các tiêu chuẩn chính trị mà không phù hợp với đặc thù kinh tế thì sẽ dẫn đến hoạt động kinh tế không hiệu quả và đi kèm theo nó là một loạt các hệ quả ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống kinh doanh.  
Bên cạnh đặc điểm chung đã nêu, nền kinh tế Việt Nam còn có một số đặc thù do lịch sử để lại. Trong giai đoạn kiến thiết đất nước sau khi giành được độc lập, do những nhận thức không đầy đủ, chúng ta đã nhầm lẫn về khái niệm sở hữu. Trong một thời kỳ dài, nền kinh tế được xây dựng theo định hướng xoá bỏ chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất tức là loại bỏ kinh tế tư nhân. Sai lầm này đã để lại hậu quả trên nhiều mặt của đời sống xã hội mà trước tiên là nền kinh tế. Việc loại bỏ sở hữu tư nhân đã kéo theo sự phát triển phi tự nhiên của nền kinh tế. Khu vực kinh tế tư nhân là môi trường thuận lợi cho các khuynh hướng đa dạng của cuộc sống sinh sôi và phát triển. Nếu được phát triển một cách tự nhiên, kinh tế tư nhân sẽ giúp con người tự thân phát triển, con người có cơ hội tự hoàn thiện vì sự phát triển của chính nó và thông qua đó tạo ra sự phát triển của xã hội. Kinh tế tư nhân Việt Nam tồn tại trong những điều kiện bất lợi như vậy đã không có cơ hội phát triển. Một khi kinh tế cá nhân không có cơ hội để phát triển thì các giá trị cá nhân hầu như tan biến, con người sẽ trở nên mờ nhạt trong mọi khía cạnh của đời sống vật chất cũng như tinh thần. Sự phát triển lệch lạc của nền kinh tế như vậy đã tác động không nhỏ đến sự hình thành và phát triển tự nhiên của văn hóa kinh doanh.
Có thể thấy một trong những nhược điểm của văn hóa kinh doanh Việt Nam là chúng ta không có truyền thống kinh doanh, một lợi thế của cộng đồng kinh doanh ở bất kỳ quốc gia nào. Xuất phát từ sự phát triển không liên tục của nền kinh tế do chịu nhiều tác động chủ quan, hoạt động kinh doanh đã không tạo ra được chuỗi thành tựu liên tục để có thể hình thành truyền thống kinh doanh. Các giá trị văn hóa trong kinh doanh do chịu nhiều tác động đã không thể hình thành một cách tự nhiên. Tâm lý kinh doanh cũng chịu nhiều sự tác động và trở thành một thứ tâm lý hỗn hợp. Hiện nay, khi ra phố, chúng ta có thể thấy người Việt Nam buôn bán rất nhộn nhịp, nhưng đấy là tâm lý kiếm lời chứ không phải tâm lý kinh doanh. Nếu chỉ có tâm lý kiếm lời một cách nhanh chóng thì không thể có nền kinh tế chuyên nghiệp được và nền kinh tế đó sẽ giống như một cái chợ mà người ta mang hàng hóa từ chỗ khác đến bán chứ không phải là nơi sản sinh ra các sản phẩm.
Cũng chính vì không có truyền thống kinh doanh nên cho đến nay chúng ta vẫn chưa có một nhận thức đầy đủ về lý tưởng tạo ra các giá trị gia tăng trong nền kinh tế và trong hoạt động kinh doanh. Việt Nam hiện nay chưa có cái gọi là các yếu tố cấu thành một nền kinh tế theo đúng nghĩa, tức là tạo ra giá trị gia tăng trên quy mô tổng thể của toàn xã hội và cả nền kinh tế. Có thể lấy ví dụ về quá trình sản xuất nông nghiệp, vốn là nguồn sống của khoảng 80% người dân Việt Nam. Thóc gạo của nhân dân thường được thu mua với giá rẻ, xuất khẩu với giá cao. Trong khi tạo ra một sự gia tăng bằng đầu cơ lúa gạo như vậy thì chúng ta lại tạo ra một giá trị gia giảm trong quá trình nhập vật tư cần thiết cho nông nghiệp. Hai quá trình này được tiến hành bởi những cơ quan và tổ chức khác nhau cho nên người ta không nhận thức được sự gia tăng thật sự của kinh tế nông nghiệp. Cơ quan thống kê và các cơ quan chức năng cũng chưa bao giờ ghép hai quá trình này làm một để thông báo về tính không gia tăng của quá trình sản xuất. Bản chất của khoa học kinh tế là khoa học về các lợi ích. Làm gia tăng các giá trị cụ thể là yếu tố không thể thiếu của quá trình kinh doanh là mục tiêu của kinh doanh. Nếu không xác định được mục tiêu của kinh doanh thì sẽ không thể có kinh tế phát triển.  
Trong quá trình hình thành, ngoài những đặc điểm kinh tế, văn hoá kinh doanh còn chịu sự tác động của các đặc điểm văn hóa. Văn hóa ở Việt Nam giống như nhiều quốc gia đang phát triển, đang ở trong trạng thái lạc hậu và khép kín. Chúng ta luôn lo sợ bị mất bản sắc văn hóa do sự cọ sát và tương tác giữa các nền văn hóa khác nhau trong quá trình hội nhập và toàn cầu hóa. Chúng ta luôn luôn có một bản năng đề kháng, ngăn chặn sự mất mát bản sắc. Bản năng này dường như đã trở thành một loại phản ứng tự nhiên phổ biến trong các quốc gia mà năng lực cạnh tranh kém một cách tổng thể hoặc một cách tương đối. Nền văn hóa khép kín và chưa được giải phóng ra khỏi các định kiến chính trị ấy không được tiếp nhận một cách tự nhiên các yếu tố mới và do đó không thể đóng góp nghĩa vụ của mình trong đời sống hiện tại và cả đời sống phát triển. Chừng nào nền văn hóa ấy chưa được cải cách, chưa trở thành nền văn hóa mở thì những yếu tố lạc hậu tương đối mang tính bản chất của nó vẫn tiếp tục xâm nhập và ảnh hưởng tiêu cực đến mọi lĩnh vực của đời sống. Văn hóa kinh doanh, chính vì thế, cũng mang trên nó những yếu tố lạc hậu của nền văn hóa. Hệ quả là văn hóa kinh doanh ngay từ khi hình thành đã mang cả tính phi tự nhiên và tính lạc hậu. Đó chính là nguyên nhân khiến văn hóa kinh doanh hiện nay chưa thể trở thành một môi trường tinh thần lý tưởng thúc đẩy sự phát triển của cộng đồng kinh doanh.
Sự phát triển phi tự nhiên và lạc hậu của văn hóa kinh doanh đã để lại một hậu quả là chúng ta chưa có đội ngũ doanh nhân đích thực. Trong suốt tiến trình phát triển, so với nhiều nước châu Á như Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc... dân tộc ta chưa bao giờ có được một tầng lớp doanh nhân theo đúng tên gọi của nó. Vai trò và thực lực của tầng lớp doanh nhân trong lịch sử dân tộc vốn đã hết sức mờ nhạt, chúng ta không có những doanh nhân xuất sắc để phát triển kỹ nghệ và thúc đẩy thương nghiệp. Người Việt Nam bằng lòng với những con thuyền nan quanh quẩn trên sông hồ mà quên đi cái bao la của đại dương. Thời kỳ thuộc Pháp, một số nhà doanh nghiệp dân tộc xuất hiện nhưng vấp phải sự cạnh tranh dữ dội của tư bản chính quốc nên phần lớn không thể đứng vững và phát triển. Tiếp sau những ảnh hưởng của tư tưởng phong kiến, sự chèn ép của đế quốc thực dân, những sai lầm trong thời kỳ kinh tế kế hoạch tập trung đã đẩy tầng lớp doanh nhân đến tình trạng bị xã hội nhìn nhận gần như kẻ xấu - những kẻ ăn bám hoặc trục lợi bất chính. Kết quả là chúng ta có một đội ngũ doanh nhân không chuyên nghiệp, không có chiến lược dài hạn và không có tiêu chuẩn văn hóa. Trong đội ngũ doanh nhân vẫn tồn tại phổ biến lối kinh doanh chụp giật, phi pháp và không thực hiện đúng những nghĩa vụ của mình với nhà nước và xã hội. Nguy hiểm hơn là hiện tượng doanh nhân trục lợi hay tìm kiếm địa vị chính trị bằng cách liên kết, móc ngoặc với các thế lực chính trị thoái hóa hay tận dụng sơ hở của nhà nước diễn ra một cách phổ biến. Hiện tượng này tạo ra sự liên minh không minh bạch giữa chính trị và kinh tế. Đây là biểu hiện không lành mạnh của xã hội. Liên minh giữa chính trị và kinh doanh thể hiện ở nhiều mức độ khác nhau đối với từng quốc gia và luôn là liên minh vô cùng nguy hiểm ở bất kỳ quốc gia nào. Đối với một nước đang phát triển như nước ta, liên minh này mới chỉ thể hiện ở mức độ thấp, đó chính là quá trình tham nhũng. Kinh doanh theo cách như vậy sẽ tạo ra một thị trường, một nền kinh tế không lành mạnh, tạo ra một tương quan cạnh tranh vốn dĩ là động lực cơ bản để phát triển kinh tế không lành mạnh, trong khi xây dựng nền kinh tế thị trường chính là xây dựng một môi trường cạnh tranh mà ở đó tất cả các yếu tố đều bình đẳng và tương thích với tiềm lực của mình. Việc thổi phồng các tiềm lực thông qua sự xúc tiến chính trị làm cho kinh doanh trở nên không còn lành mạnh nữa. Các hoạt động kinh doanh cụ thể không lành mạnh sẽ làm cho toàn bộ môi trường kinh doanh không lành mạnh và cản trở sự phát triển các năng lực tự nhiên. 
Cần phải khẳng định rằng, văn hóa kinh doanh là nền tảng tinh thần có tác dụng điều chỉnh các hành vi kinh doanh trong đời sống xã hội. Một nền văn hóa kinh doanh tiên tiến sẽ thúc đẩy kinh tế phát triển. Vì thế, nền văn hóa kinh doanh mà chúng ta đang có nhất thiết phải được uốn nắn, sửa chữa các khuyết tật vốn có và bổ sung những đòi hỏi của cuộc sống đang xuất hiện. Điểm xuất phát phải là yếu tố con người, bởi vì, mọi sự phát triển đều có nguồn gốc từ năng lực và trí tuệ của con người. Điểm xuất phát đó chính là đội ngũ doanh nhân, hạt nhân của đời sống kinh doanh.
3. Xây dựng đội ngũ doanh nhân chuyên nghiệp
Như đã phân tích ở trên, chúng ta chưa có đội ngũ doanh nhân với đầy đủ phẩm chất cần có. Vì vậy, khởi điểm của quá trình uốn nắn văn hóa kinh doanh phải là việc xây dựng một đội ngũ doanh nhân chuyên nghiệp. Về bản chất, xây dựng đội ngũ doanh nhân Việt Nam cần phải được hiểu là xây dựng khu vực kinh tế tư nhân Việt Nam. Bởi vì, khu vực kinh tế tư nhân không chỉ có vai trò điều chỉnh toàn bộ cấu trúc của nền kinh tế mà còn là nơi sản sinh các nhà kinh doanh thật sự. Nhà kinh doanh ở khu vực nhà nước do được nhà nước đảm bảo nên trách nhiệm của họ rất hạn chế. Địa vị của những doanh nhân này là địa vị chính trị chứ không phải là địa vị kinh tế. Đã là địa vị chính trị thì có thể khắc phục sự mất mát địa vị bằng những cách thức chính trị chứ không phải bằng cách thức kinh doanh. Chính các giám đốc của những doanh nghiệp tư nhân mới là những người phải đương đầu thực sự với rủi ro và phải cạnh tranh để hoàn thành nhiệm vụ kinh doanh của mình. Khu vực kinh tế tư nhân, vì thế, là môi trường tốt nhất để rèn luyện một đội ngũ doanh nhân chuyên nghiệp.  
Việc xây dựng đội ngũ doanh nhân phải bắt đầu từ các cá thể chứ không phải từ tổ chức, tức là không được cưỡng ép quá trình này bằng những đòi hỏi trái tự nhiên. Đội ngũ doanh nhân hình thành một cách lành mạnh khi và chỉ khi mỗi doanh nghiệp, mỗi cá nhân kinh doanh là những cá thể phát triển hoàn chỉnh. Sở dĩ đến nay chúng ta vẫn chưa có đội ngũ doanh nhân chuyên nghiệp là vì lâu nay chúng ta vẫn chưa nhận thức một cách rõ ràng rằng mỗi người sinh ra đã là một cá thể. Mỗi cá thể không chỉ là một thực thể sinh học mà còn là một thực thể văn hoá. Một cộng đồng doanh nhân đúng nghĩa phải là tập hợp các cá thể hoàn chỉnh cả về kỹ năng, trình độ và các tiêu chuẩn văn hóa kinh doanh.
Để có một đội ngũ gồm các cá thể hoàn chỉnh về kỹ năng, trình độ, trước tiên là phải giải phóng sức sáng tạo và năng lực phát triển của mỗi cá nhân. Đây là điều mà từ trước đến nay chúng ta rất thiếu kinh nghiệm, do đó hầu như không chú trọng lắm đến việc đảm bảo tự do cho hoạt động kinh doanh, một hoạt động mang tính bản năng tự nhiên của con người. Một trong những yếu tố cạnh tranh của một cộng đồng xã hội chính là tính đa dạng của sự sáng tạo mà tính đa dạng của sự sáng tạo là hệ quả tất yếu của sự đa dạng của những năng lực cá nhân. Sự đa dạng ấy là kết quả trực tiếp của sự tôn trọng các giá trị cá nhân. Vì vậy, phát triển con người là phải tôn trọng các giá trị cá nhân, tạo không gian tự do cho sự phát triển năng lực tự nhiên, trong đó có tài năng kinh doanh. Bên cạnh đó, để phát triển đội ngũ doanh nhân một cách hoàn chỉnh, chúng còn có một nhiệm vụ nữa là xây dựng hệ tiêu chuẩn văn hóa kinh doanh. Đây là nhiệm vụ không chỉ của doanh nhân mà còn của cả xã hội. Để hoàn thành tốt sứ mệnh của mình, mỗi doanh nhân, hay mỗi cá thể kinh doanh, phải đạt tới những tiêu chuẩn nhất định. Vai trò của các quy tắc, các tiêu chuẩn chung đó là định hướng cho hoạt động của con người phù hợp và không đi ngược lại lợi ích chung. Vì thế, hệ tiêu chuẩn văn hóa kinh doanh phải được xây dựng trên cơ sở những tiêu chuẩn nhân bản phổ quát, những tiêu chuẩn văn hóa kinh doanh quốc tế và phải được sự chấp nhận của cộng đồng doanh nhân và sự đồng tình của toàn xã hội.
Xây dựng đội ngũ doanh nhân cũng không thể không chú ý tới thái độ tôn trọng thực sự đối với tầng lớp doanh nhân. Việc báo chí tuyên truyền rầm rộ các giải thưởng sao đỏ, sao vàng chưa hoàn toàn phản ánh thái độ cần có của Đảng và Nhà nước đối với giới doanh nhân. Thậm chí, không ít người còn cho rằng, sự thể hiện ấy là thái quá, giống như sự sám hối đối với sự miệt thị các hoạt động kinh doanh trước kia, hay nói cách khác, đó chỉ là những động thái chính trị nhằm khích lệ doanh nhân. Thực ra, cái mà doanh nhân đi tìm không phải là địa vị chính trị mà là địa vị xã hội. Doanh nhân là những người ý thức đầy đủ và tỉnh táo về sự gia tăng các giá trị thông qua hành vi của mình vì gia tăng các giá trị là mục tiêu của kinh doanh. Xét theo quan điểm kinh tế của Adam Smith, sự gia tăng giá trị kinh doanh đó thậm chí còn mang lại những giá trị xã hội lớn hơn và đó là giá trị xã hội của nhà kinh doanh. Sự thừa nhận giá trị xã hội của nhà kinh doanh, do đó, là động lực vô cùng to lớn cho sự phát triển của kinh tế.
Một vấn đề nữa cần phải quan tâm khi bàn về việc xây dựng đội ngũ doanh nhân, đó là cần nhận thức lại về chủ nghĩa yêu nước. Nếu như trước đây, yêu nước gắn liền với lòng căm thù giặc sâu sắc hay sự hy sinh để bảo vệ tổ quốc thì trong thời đại hiện nay, khi đất nước đã độc lập và thống nhất, yêu nước cần phải được hiểu là làm cho "dân giầu nước mạnh" như khẩu hiệu mà Đảng ta đã đề ra. Doanh nhân là những con người như thế bởi chính họ đem đến sự giàu có cho dân tộc, lợi ích của họ cũng chính là lợi ích của xã hội. Chúng ta hoàn toàn có thể coi doanh nhân thành đạt là nhân tài của đất nước. Điều đáng mừng là thế hệ trẻ ngày nay đã phần nào hiểu được sự tụt hậu của đất nước, họ khát khao đóng góp và nâng cao vị thế của đất nước trên trường quốc tế. Cần phải khuyến khích và tạo không gian tự do cho sự phát triển năng lực sáng tạo của mỗi cá nhân, đặc biệt là những nhân tố như thế.
Lời kết
Sự thịnh vượng của một quốc gia là kết quả của sự phong phú đời sống tinh thần, đời sống trí tuệ, đời sống tâm hồn của mỗi con người. Để có được sự phong phú ấy thì điểm xuất phát của nó là mỗi cộng đồng được cấu tạo bởi các cá thể có giá trị, mà một cá thể có giá trị phải bắt đầu từ một cá thể lành mạnh. Khi nào con người không nhận ra mình là một cá thể và chứng minh mình là một cá thể quan trọng hơn bất kỳ cái gì còn lại thì không thể có sự thịnh vượng. Cộng đồng doanh nhân cũng vậy, nếu không có tính cá thể hay chất lượng cá thể không trọn vẹn thì cũng không thể trở thành một cộng đồng mạnh và càng không thể góp phần đem lại sự giàu có và thịnh vượng cho quốc gia. Vì vậy, xây dựng một đội ngũ doanh nhân với những cá thể hoàn chỉnh là một nhiệm vụ cực kỳ quan trọng. Một đội ngũ doanh nhân lành mạnh sẽ là tiền đề của một nền văn hoá văn hoá kinh doanh lành mạnh và nền kinh tế chuyên nghiệp. Nền văn hóa kinh doanh ấy sẽ góp phần đưa cộng đồng kinh doanh Việt Nam cùng cả nước hội nhập vào đời sống kinh tế chính trị toàn cầu.

Thursday, April 26, 2012

Tăng tốc thanh toán điện tử


Tài khoản di động Starbucks trên điện thoại thông minh.
(TBVTSG) - Chuyện gì sẽ xảy ra nếu Apple cho phép 200 triệu người có tài khoản iTunes sử dụng điện thoại iPhone để chuyển khoản, mua bán hàng hóa hay thanh toán phí dịch vụ với nhau theo hình thức P2P (peer-to-peer – mạng ngang hàng)? Trên thực tế hãng công nghệ này đã có bước chuẩn bị bằng việc mua một loạt bản quyền sở hữu trí tuệ có liên quan nhằm phục vụ cho dự án, và hãng Google cũng đã bắt đầu thử nghiệm ví điện tử Google Wallet nhằm tích hợp dịch vụ thanh toán vào các dòng điện thoại mới của Motorola Mobility.
Ngành công nghệ thanh toán điện tử (electronic payment industry) đáng giá hàng trăm tỉ đô la Mỹ đang chạy hết công suất ở cả hai thị trường thanh toán trực tuyến (online payment) và thanh toán di động (mobile payment). Nếu thanh toán trực tuyến lan nhanh đến các nền kinh tế đang phát triển và mới nổi nhờ học hỏi kinh nghiệm về việc thiết lập hạ tầng công nghệ của các quốc gia đã phát triển, thì ngược lại thanh toán di động đang ở mức tăng trưởng mạnh hơn và lan nhanh từ châu Á sang châu Mỹ, châu Âu nhờ những sáng kiến công nghệ mới. Trong khi tỷ lệ sử dụng tiền mặt mỗi lúc một thu hẹp ở Nhật Bản, Hàn Quốc, Ấn Độ và Trung Quốc thì tốc độ thay thế việc chi trả ngân phiếu bằng thanh toán trực tuyến cũng đang tăng nhanh ở cấp độ toàn cầu.
Xuất phát từ nhu cầu thực tế
Cách nay không lâu người Mỹ vẫn còn ngỡ ngàng khi hình thức thanh toán điện tử mà họ gọi là WEB và TEL bắt đầu thay thế những tờ ngân phiếu hay các khoản tiền mặt. Nhưng rồi tỷ lệ thanh toán điện tử trong tổng số các khoản chi trả không dùng tiền mặt (non-cash payment) cứ tăng lên, khoảng 30% trong năm 2000, 54,2% trong năm 2003 rồi 67,3% trong năm 2006, đồng thời với việc giảm tỷ lệ sử dụng ngân phiếu từ 70% xuống còn 45,8% và 32,7%. Sự tiện lợi dần dần thay thế các mối nghi ngại và cả những rủi ro, nhờ vào một loạt những khoản đầu tư cho công nghệ thanh toán điện tử và cả cho uy tín thương hiệu từ nhà cung cấp dịch vụ.
Tốc độ tăng trưởng rất nhanh của thanh toán di động.
Trong khi việc chuyển đổi từ ngân phiếu sang thanh toán điện tử đang êm ả thì thị trường bắt đầu được khuấy động bởi sự xuất hiện của thanh toán di động. Chẳng những nó nới rộng cánh tay của ngân hàng trong thể thức mobile banking mà còn thay thế các khoản tiền mặt trước đây vẫn được mang theo dằn túi. Ngày nay bạn có thể yên tâm ngồi uống tại một tiệm cà phê và để cho tài khoản Starbucks trên chiếc điện thoại của bạn làm nhiệm vụ trả tiền.
Nơi một số quốc gia châu Á như Ấn Độ, nền thương mại điện tử phát triển rất nhanh đồng nghĩa với việc một dòng lớn tài chính chảy vào thanh toán điện tử. Tại cuộc hội thảo Techcircle về thanh toán điện tử tổ chức tại Delhi (Ấn Độ) hồi tháng 1 năm nay, các diễn giả là chủ ngân hàng và nhà cung cấp dịch vụ thanh toán cho biết khối lượng chi trả qua kênh điện tử tăng lên rất nhanh, đặc biệt trong đó có sự chuyển dịch mạnh mẽ từ việc sử dụng thẻ tín dụng (credit card) sang thẻ ghi nợ trực tiếp (direct debit card). Điều này có lợi cho việc mở rộng kinh doanh tài chính, người sử dụng và cả nền kinh tế. Lẽ dĩ nhiên, điều này cũng thúc đẩy quá trình thanh toán không cần dùng tiền mặt hay ngân phiếu như trước đây. Ở các nước như Hàn Quốc hay Singapore, thanh toán điện tử là một sách lược và nhà nước đầu tư vào đó từ hạ tầng công nghệ cơ bản đến hệ thống quy định và chính sách ứng dụng. Trên thực tế, việc lựa chọn các hình thức thanh toán điện tử ở các nền kinh tế có khác nhau tùy vào hoàn cảnh kinh tế, trình độ phát triển và cả vào nền văn hóa.
Những cuộc đua tranh mới
Thanh toán trực tuyến nay trở thành phổ thông.
Bản báo cáo về hoạt động thanh toán toàn cầu (World Payments Report) được công ty tư vấn công nghệ Capgemini, Ngân hàng Hoàng gia Scotland (RBS) và Hiệp hội Tiếp thị Tài chính châu Âu (EFMA) biên soạn hằng năm cho thấy nhịp độ khai thác dịch vụ thanh toán điện tử tăng lên rất nhanh. Nếu trong các năm từ 2008 đến 2010 số lượng giao dịch thông qua dịch vụ thanh toán trực tuyến tăng từ 14,7 tỉ lên 17,9 tỉ lượt tương ứng với khối lượng thanh toán từ 675,3 tỉ lên 824 tỉ euro, thì có khả năng đến năm 2013 các con số này sẽ là 30,3 tỉ lượt và 1.400 tỉ euro.
Tính đến cuối năm 2009, PayPal có 81 triệu tài khoản hoạt động với 1.117 triệu lượt giao dịch làm luân chuyển 51,3 tỉ đô la Mỹ; trước đó một năm các con số này là 887 triệu lượt và 43,1 tỉ đô la. Tuy nhiên, hoạt động thanh toán bằng thẻ vẫn chiếm tỷ lệ cao nhất trong thị trường thanh toán trực tuyến. Người ta đặc biệt ghi nhận có sự chuyển dịch toàn cầu từ việc dùng thẻ tín dụng sang các loại thẻ ghi nợ trực tiếp.
Trong khi tốc độ tăng trưởng thanh toán trực tuyến đã cao nhưng cũng chỉ vào khoảng 19,1% bình quân mỗi năm kể từ 2009, thì tốc độ tăng trưởng thanh toán di động lên đến 48,8% bình quân mỗi năm. Năm 2008, số lượng sử dụng dịch vụ thanh toán di động mới chỉ khoảng 2,2 tỉ lượt tương ứng với 28,7 tỉ euro thì đến năm 2010 tăng lên 4,5 tỉ lượt và 62 tỉ euro.
Các nhà kinh tế dự báo, với tốc độ hiện nay, đến năm 2013 số lượt giao dịch sẽ lên đến 15,2 tỉ với 223 tỉ euro được luân chuyển thông qua điện thoại và các thiết bị di động. Đâu đó người ta nhận ra bóng dáng một cuộc chạy đua giữa thanh toán di động với các phần mềm công nghệ mới và thanh toán trực tuyến với những phương thức mới, sáng tạo, chắc chắn, dễ dàng và đem lại nguồn lợi nhiều hơn cho cả nhà ngân hàng, nhà dịch vụ và người tiêu dùng.
Trong cơn lốc tăng tốc thanh toán điện tử này chắc chắn sẽ có nhiều nền kinh tế đang phát triển, bao gồm cả Việt Nam, tham gia cuộc đua. Yêu cầu đặt ra là các nền kinh tế này cần giải quyết được các vấn đề về cơ sở hạ tầng thanh toán và xây dựng các luật lệ tài chính rõ ràng, minh bạch và mang tính chất khuyến khích sự phát triển của loại hình thanh toán trực tuyến.
Các phương thức thanh toán điện tử được củng cố trên các mặt trận khác nhau, cạnh tranh lẫn nhau bởi đây là thị trường béo bở có giá trị đến hàng trăm tỉ đô la, và từ đó đẩy nhanh tốc độ số hóa dòng chảy tài chính. Trên cả hai thị trường thanh toán trực tuyến và thanh toán di động đều xuất hiện các sáng kiến như những gì Apple và Google đang ráo riết chuẩn bị. Và giới chuyên gia cũng đã dự báo rằng một dòng chảy tài chính thứ ba có thể được sớm hình thành dựa trên các trang mạng xã hội như Facebook. Bức tranh thanh toán điện tử với sự gia nhập của thành viên mới là thanh toán xã hội (social payment) chắc chắn sẽ sinh động hơn, cạnh tranh hơn, bởi một số mạng xã hội hiện nay đang có số lượng thành viên lên đến hàng trăm triệu người.
______________________________________________________
Tài liệu tham khảo:
- E-payments Soaring High: A Ringside Look At Emerging Trends: http://www.vccircle.com/500/news/e-payments-soaring-high-a-ringside-look-at-emerging-trends
- Current Trends in the Electronic Payments Industry: http://wmtoday.wordpress.com/2011/09/26/how-mobile-payments-are-disrupting-the-financial-services-industry/
- WORLD PAYMENT REPORT 2011: http://gbm.rbs.com/docs/gbm/insight/gts/perspectives/WPR_2011.pdf