Tuesday, September 27, 2011

How to Prevent a Depression

AMSTERDAM – The latest economic data suggests that recession is returning to most advanced economies, with financial markets now reaching levels of stress unseen since the collapse of Lehman Brothers in 2008. The risks of an economic and financial crisis even worse than the previous one – now involving not just the private sector, but also near-insolvent sovereigns – are significant. So, what can be done to minimize the fallout of another economic contraction and prevent a deeper depression and financial meltdown?
First, we must accept that austerity measures, necessary to avoid a fiscal train wreck, have recessionary effects on output. So, if countries in the eurozone’s periphery are forced to undertake fiscal austerity, countries able to provide short-term stimulus should do so and postpone their own austerity efforts. These countries include the United States, the United Kingdom, Germany, the core of the eurozone, and Japan. Infrastructure banks that finance needed public infrastructure should be created as well.
Second, while monetary policy has limited impact when the problems are excessive debt and insolvency rather than illiquidity, credit easing, rather than just quantitative easing, can be helpful. The European Central Bank should reverse its mistaken decision to hike interest rates. More monetary and credit easing is also required for the US Federal Reserve, the Bank of Japan, the Bank of England, and the Swiss National Bank. Inflation will soon be the last problem that central banks will fear, as renewed slack in goods, labor, real estate, and commodity markets feeds disinflationary pressures.
Third, to restore credit growth, eurozone banks and banking systems that are under-capitalized should be strengthened with public financing in a European Union-wide program. To avoid an additional credit crunch as banks deleverage, banks should be given some short-term forbearance on capital and liquidity requirements. Also, since the US and EU financial systems remain unlikely to provide credit to small and medium-size enterprises, direct government provision of credit to solvent but illiquid SMEs is essential.
Fourth, large-scale liquidity provision for solvent governments is necessary to avoid a spike in spreads and loss of market access that would turn illiquidity into insolvency. Even with policy changes, it takes time for governments to restore their credibility. Until then, markets will keep pressure on sovereign spreads, making a self-fulfilling crisis likely.
Today, Spain and Italy are at risk of losing market access. Official resources need to be tripled – through a larger European Financial Stability Facility (EFSF), Eurobonds, or massive ECB action – to avoid a disastrous run on these sovereigns.
Fifth, debt burdens that cannot be eased by growth, savings, or inflation must be rendered sustainable through orderly debt restructuring, debt reduction, and conversion of debt into equity. This needs to be carried out for insolvent governments, households, and financial institutions alike.
Sixth, even if Greece and other peripheral eurozone countries are given significant debt relief, economic growth will not resume until competitiveness is restored. And, without a rapid return to growth, more defaults – and social turmoil – cannot be avoided.
There are three options for restoring competitiveness within the eurozone, all requiring a real depreciation – and none of which is viable:
·         A sharp weakening of the euro towards parity with the US dollar, which is unlikely, as the US is weak, too.
·         A rapid reduction in unit labor costs, via acceleration of structural reform and productivity growth relative to wage growth, is also unlikely, as that process took 15 years to restore competitiveness to Germany.
·         A five-year cumulative 30% deflation in prices and wages – in Greece, for example – which would mean five years of deepening and socially unacceptable depression; even if feasible, this amount of deflation would exacerbate insolvency, given a 30% increase in the real value of debt.
Because these options cannot work, the sole alternative is an exit from the eurozone by Greece and some other current members. Only a return to a national currency – and a sharp depreciation of that currency – can restore competitiveness and growth.
Leaving the common currency would, of course, threaten collateral damage for the exiting country and raise the risk of contagion for other weak eurozone members. The balance-sheet effects on euro debts caused by the depreciation of the new national currency would thus have to be handled through an orderly and negotiated conversion of euro liabilities into the new national currencies. Appropriate use of official resources, including for recapitalization of eurozone banks, would be needed to limit collateral damage and contagion.
Seventh, the reasons for advanced economies’ high unemployment and anemic growth are structural, including the rise of competitive emerging markets. The appropriate response to such massive changes is not protectionism. Instead, the advanced economies need a medium-term plan to restore competitiveness and jobs via massive new investments in high-quality education, job training and human-capital improvements, infrastructure, and alternative/renewable energy. Only such a program can provide workers in advanced economies with the tools needed to compete globally.
Eighth, emerging-market economies have more policy tools left than advanced economies do, and they should ease monetary and fiscal policy. The International Monetary Fund and the World Bank can serve as lender of last resort to emerging markets at risk of losing market access, conditional on appropriate policy reforms. And countries, like China, that rely excessively on net exports for growth should accelerate reforms, including more rapid currency appreciation, in order to boost domestic demand and consumption.
The risks ahead are not just of a mild double-dip recession, but of a severe contraction that could turn into Great Depression II, especially if the eurozone crisis becomes disorderly and leads to a global financial meltdown. Wrong-headed policies during the first Great Depression led to trade and currency wars, disorderly debt defaults, deflation, rising income and wealth inequality, poverty, desperation, and social and political instability that eventually led to the rise of authoritarian regimes and World War II. The best way to avoid the risk of repeating such a sequence is bold and aggressive global policy action now.

 http://www.project-syndicate.org/commentary/roubini42/English


Monday, September 26, 2011

Cái đẹp cứu rỗi cuộc sống

TP - Nhìn nhận các vụ án mạng nghiêm trọng liên tiếp xảy ra thời gian qua, nhà nghiên cứu, luật sư Nguyễn Trần Bạt cho rằng: Khi chúng ta bàn cái đằng sau tội ác tức là chúng ta đã phạm sai lầm.

Truyền thông phải ẩn ác dương thiện
Gần đây xảy ra nhiều vụ án mạng đối tượng gây án đều trẻ. Theo ông, đằng sau câu chuyện đó là gì?
Bao giờ chúng ta bàn cái đằng sau tội ác thì tôi nghĩ là chúng ta đã phạm phải một sai lầm. Xưa nay chúng ta đã tạo ra sai lầm là luôn luôn đổ vạ cho cuộc sống. Hiện tượng ấy là những hiện tượng đột biến của cuộc sống.
Để khắc phục những hiện tượng như vậy, không phải xoáy vào câu chuyện tội ác mà cần phải khích lệ những mặt tích cực, những mặt tử tế, những mặt lương thiện của con người, làm cho những kẻ giết người xấu hổ. Một kẻ khi giết người mà không còn xấu hổ nữa thì đó là kẻ giết người bẩm sinh, và đấy là căn bệnh. Chúng ta phải đối mặt với những căn bệnh ấy bằng một công cụ khác, không phải bằng công cụ đạo lý nữa.
Thưa ông, thông tin về các vụ án mạng liên tục xuất hiện trên báo chí mang ý nghĩa cảnh tỉnh hay tạo ra cảm giác bất an?
Truyền thông luôn luôn xoáy vào các hiện tượng nổi bật, mà nó nổi bật cũng do chính truyền thông tạo ra. Những hiện tượng như vậy có đầy rẫy ở trong các xã hội, phương Tây, ở Trung Quốc, ở Ấn Độ đều có.
Ở đâu, lúc nào cũng có những kẻ giết người. Những yếu tố ấy là hạt đỗ đen trong toàn bộ cánh đồng đỗ. Tôi không nghĩ rằng cần phải khái quát thành một hiện tượng có tính chất phổ biến trong xã hội. Phải ẩn ác dương thiện.
Ông có nghĩ rằng những hiện tượng tội ác trở nên nổi bật trên bao chí chỉ vì đơn giản là nó hấp dẫn hơn những hiện tượng lành mạnh?
Tôi có một bài đã được xuất bản thành sách đó là “Nhận thức thế giới trong thời đại thông tin”. Tôi cho là truyền thông của chúng ta có lỗi khi quá tập trung sự chú ý xã hội vào một số hiện tượng tiêu cực mà bỏ quên phần lớn còn lại là hiện tượng rất lành mạnh. Không nên câu khách thông qua phản ánh hiện tượng tiêu cực.
Tôi nghĩ chúng ta phải di chuyển sự chú ý của lớp trẻ ra khỏi những hiện tượng tiêu cực như vậy. Xã hội càng phát triển chậm, mặt bằng dân trí càng thấp thì sự chú ý vào những hiện tượng tiêu cực càng lớn.
Báo chí phải tự giải phóng mình ra khỏi những hiện tượng như vậy. Phải nhớ rằng hiện tượng lành mạnh hấp dẫn hơn hiện tượng tiêu cực. Nhưng chúng ta không biết mô tả một cách hấp dẫn hiện tượng lành mạnh. Có lẽ truyền thông buộc phải nghiên cứu một cách thức tiếp cận với mặt lành mạnh của cuộc sống một cách tự nhiên hơn.
Luật sư Nguyễn Trần Bạt
Luật sư Nguyễn Trần Bạt.
 
Đối phó với tội ác bằng sự trong sạch
Trong những vụ án mạng nghiêm trọng kẻ gây án chưa đủ 18 tuổi nên không bị khép hình phạt tử hình. Điều đó làm rất nhiều người căm phẫn. Phải chăng có sự vênh nhau giữa đạo đức và pháp luật, giữa pháp luật và cuộc sống trong câu chuyện này. Dưới góc nhìn của một luật sư ông đánh giá như thế nào?

Vì một hiện tượng tiêu cực mà phải xé bỏ những chỉ giới của luật pháp quốc tế tức là chúng ta xem hiện tượng tiêu cực ấy quan trọng hơn cuộc sống. Tôi nghĩ rằng chúng ta buộc phải tuân thủ các chỉ giới của pháp luật, cho dù pháp luật ấy nó vẫn còn có vấn đề, cho dù nó thất bại trong một số hiện tượng cá biệt. Nếu chúng ta uốn cong luật pháp để giành thắng thế trong bất kỳ hiện tượng có tính chất tư pháp nào thì chúng ta là kẻ thất bại về mặt tư pháp.
Tôn trọng pháp luật, xử đúng người đúng tội, đúng pháp luật thực chất là bảo vệ nhà nước của chúng ta. Bởi vì nhà nước phải dựa trên căn bản một hệ thống pháp luật tương đối ổn định. Khi thấy ở luật pháp có sự bất cập thì chúng ta phải uốn nắn lại nó thông qua con đường lập pháp, con đường tư pháp chứ không phải thông qua điều chỉnh thái độ của chúng ta đối với các điều luật.
Chắc hẳn việc một người dưới 18 tuổi không bị kết án tử hình dù phạm tội đặc biệt nghiêm trọng đã thể hiện sự tiến bộ và nhân văn của pháp luật?
Bây giờ kể cả với những người thành niên rồi thì cũng đã có khá nhiều nước hủy bỏ án tử hình. Quốc hội chúng ta cũng đã từng thảo luận là có duy trì hay không duy trì án tử hình. Tử hình không phải là một cách thức tốt để khuyến dụ con người.
Nếu con người là một đối tượng dân sự có tài sản, có ràng buộc và được tôn trọng thì ngay sự không tôn trọng nó đã là một sự trừng phạt khổng lồ rồi. Vì thế, việc có ý kiến đòi hỏi phải xé bỏ luật để tử hình cho được một người vị thành niên là điều rất nguy hiểm.
Nói nhiều đến tội ác và trừng phạt chắc không phải cách tốt để hướng giới trẻ tới sự lương thiện. Làm thế nào để giới trẻ có thể tự vệ trước sự tha hoá của đời sống?
Tôi nghĩ cộng tác với lớp trẻ và thổi vào họ một nhận thức gì đấy, một tình cảm, một thái độ… là rất tốt. Khi chúng ta nói chuyện với giới trẻ chúng ta không nói đến tội ác, tội phạm.
Cuộc sống sẽ dạy cho họ đủ các bài, chúng ta không dạy thêm những bài ấy. Và trong những cách để con người tự vệ trước sự tha hóa của cuộc sống thì trong sạch là vũ khí quan trọng nhất, chứ không phải dạy nó kinh nghiệm để đối phó với tội ác. Kinh nghiệm lớn nhất để đối phó với tội ác là giữ cho mình trong sạch.
Một nhà toán học cũng đã hỏi tôi rằng: đọc sách của ông tôi thấy ông khuyên những người trẻ nên giữ gìn sự lương thiện. Nhưng theo kinh nghiệm của tôi, càng lương thiện càng dễ chết, vậy làm thế nào để giải thích hiện tượng này? Tôi trả lời: Là một nhà toán học thì anh biết rất rõ rằng không ai mặc cả với tiên đề. Sự lương thiện là tiên đề để hình thành con người, không mặc cả với nó được.
Có thể chết, có thể thua thiệt vì sự lương thiện, nhưng không thể hy sinh sự lương thiện để không thua thiệt và để không chết.
Cảm ơn ông.
http://www.tienphong.vn/thoi-su/552169/cai-dep-cuu-roi-cuoc-song-tpp.html

Chống tham nhũng cần khoa học hơn, chặt chẽ hơn

Thưa ông, Nghị định số 68/2011/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 37/2007/NĐ-CP của Chính phủ về minh bạch tài sản, thu nhập sẽ có hiệu lực từ ngày 30-9 tới đây. Có nghĩa là câu chuyện kê khai tài sản không phải là mới mẻ ở Việt Nam, càng không mới đối với thế giới, nhưng có vẻ là một chuyện khó thực hiện ở Việt Nam?
Ở trên thế giới người ta không đặt ra vấn đề kê khai tài sản, vì tất cả mọi tài sản đều minh bạch, hoặc cũng có tài sản không minh bạch nhưng người ta cũng không đặt ra việc kê khai. Người ta chỉ đặt vấn đề kê khai đối với các tài sản có được từ quyền lực của bộ máy nhà nước, tức là từ ngân sách, thứ hai là từ các tài trợ chính trị. Tức là việc kê khai tài sản chỉ liên quan đến những người làm chính trị, quan chức chứ không phải là một đòi hỏi bắt buộc phải kê khai tài sản đối với bất kỳ người dân nào.
Vâng, thưa ông, tôi nghĩ là theo tinh thần của Nghị định 68 thì ở Việt Nam kê khai tài sản cũng là để hướng tới mục tiêu phòng chống tham nhũng là chính, tức là đối tượng cần kê khai tài sản hay nói cách khác là bắt buộc phải kê khai tài sản chủ yếu là cán bộ, công chức – những người nằm trong bộ máy nhà nước?
Tôi thấy chúng ta đang đặt ra một vấn đề tôi cho là chưa rõ ràng lắm. Theo tin tức được phản ánh từ báo chí mà tôi đọc được thì có quan chức có trách nhiệm đã phát biểu, đến một lúc nào đó sẽ có sự kê khai tài sản đối với cả xã hội. Vậy chúng ta có định hình thành cho xã hội một thói quen kê khai tài sản hay không? Bởi vì công khai và kê khai tài sản sẽ kéo theo rất nhiều thứ khác. Nhà nước có biện pháp gì để bảo vệ tài sản cho những người đã công khai tài sản trước nguy cơ xâm phạm từ các lực lượng xã hội đen tối khác. Bởi nếu chúng ta có một số tài sản thì dễ bị trộm cắp “nhìn”, kẻ cướp cũng “nhìn”, bọn khủng bố cũng “nhìn” và nó liên quan đến chuyện bắt cóc, tống tiền cùng nhiều hệ lụy khác. Tôi cho rằng đặt ra vấn đề kê khai tài sản mà không xét đến các khía cạnh hậu quả của vấn đề này là một sự đơn giản hóa. Chúng ta không nhân danh chống tham nhũng để bắt người ta “phơi áo” trước mọi thèm thuồng của các lực lượng xã hội khác nhau. Có cả những lực lượng bảo vệ sự trong sạch xã hội, nhưng cũng có những lực lượng không hề có trách nhiệm bảo vệ sự trong sạch xã hội có thể sẽ lợi dụng vào những thông tin đó. Tôi cho rằng nếu quan niệm kê khai tài sản sẽ làm các nguồn tài sản được minh bạch thì đó là một quan niệm rất đơn giản, chưa chú ý đầy đủ đối với an ninh cá nhân. Các bạn biết là những người giàu ở trên thế giới này phải thuê vệ sĩ, người ta phải bảo hiểm tài sản, phải làm rất nhiều việc để bảo vệ tài sản. Đã đến lúc chúng ta không thể nhìn mỗi một sự việc một cách đơn giản như hiện nay chúng ta đang nhìn.
Chúng ta nhớ một điều là, chống tham nhũng chỉ là một mục tiêu trong các mục tiêu xã hội. Nếu anh có một triệu là đủ thì triệu thứ hai chính là phát triển. Nếu triệu thứ hai (vì phải kê khai) mang lại tai họa nhiều hơn thì liệu có cần có triệu thứ hai không? Và khi mỗi một thành viên của xã hội nghĩ rằng không cần đến triệu thứ hai tức là xã hội không phát triển nữa. Tôi cho rằng không nên biến một chức năng quản lý nhà nước thành một phong trào xã hội. Không nên lạm dụng một mục tiêu, cho dù mục tiêu ấy rất quan trọng và được xã hội rất hưởng ứng là chống tham nhũng để đưa ra các tuyên ngôn đơn giản.
Vậy nhưng theo ý ông, quan hệ giữa việc kê khai tài sản và mục tiêu chống tham nhũng như thế nào?
Về mặt nguyên tắc, quan chức của chúng ta gần như không có tài sản. Bởi đem so lương với mức chi tiêu để người ta có thể sống một cách bình thường, thậm chí là phải hơi tiết kiệm hiện nay thì không có một quan chức nào đủ lương để sống.
Trở lại với vấn đề ông lo lắng ở trên là kê khai tài sản sẽ làm an ninh cá nhân bị đe dọa. Nhưng trong thực tế mấy năm qua, việc kê khai tài sản của cán bộ cũng chưa được công khai trước dân?
Đúng vậy, nghĩa là việc kê khai chỉ là để nội bộ biết. Nếu kê khai mà không có xét xử, không có kỷ luật, không có làm rõ thì dân sẽ bảo đấy là cán bộ kê khai với nhau. Vậy là thay vì mất uy tín của từng cá nhân, việc đặt vấn đề kê khai tài sản có thể sẽ làm mất uy tín tập thể. Cho nên đặt ra những đòi hỏi như thế, những yêu cầu như thế đôi khi chúng ta không lường trước được khả năng thực thi, nó sẽ dẫn đến mất uy tín một cách tập thể.
Quan điểm của ông từ đầu câu chuyện đến giờ có vẻ là không ủng hộ việc cán bộ phải kê khai tài sản, trong khi dư luận xã hội lại đang trông chờ điều này như một liều thuốc có thể phòng và chống tham nhũng?
Như tôi đã nói ở trên, nếu nghĩ rằng với việc kê khai tài sản để chống tham nhũng thì rất khó đạt được. Chống tham nhũng cũng là một nghệ thuật. Chống tham nhũng cũng phải có binh pháp của nó chứ không phải chống tham nhũng bằng tuyên bố. Chúng ta sẽ tiến tới một xã hội công khai hóa, minh bạch hóa hoàn toàn về tài sản, nhưng minh bạch thế nào lại là chuyện khác, không đơn giản chỉ là việc tự kê khai.
Vậy theo ông, làm thế nào để kiểm soát được nguồn tài sản có được nhờ lợi dụng chức quyền?
Cần rất thận trọng khi đặt ra vấn đề kiểm soát tài sản. Người ta kiểm soát sự trốn thuế. Chính phủ Anh và Chính phủ Thụy Sĩ vừa đạt được một thỏa thuận về việc đánh thuế các khoản tiền gửi của công dân Anh có tài khoản bí mật ở các ngân hàng Thụy Sĩ. Mọi tài sản bất minh ở các nước phát triển chính là trốn thuế, còn tham nhũng thì người ta kiểm soát kín hơn, và không có chuyện công khai tài sản. Kê khai thì có thể có nhưng công khai là một vấn đề. Không nên nhầm lẫn giữa kê khai và công khai. Kê khai với nhau hay kê khai với ai cũng là một vấn đề.
Nhưng kiểm soát thu nhập qua thuế ở Việt Nam hiện nay cũng đang rất khó?
Đương nhiên, những khát vọng của chúng ta hiện nay thì cái gì cũng khó cả. Số lượng người có thu nhập bên ngoài đồng lương công khai ở Việt Nam hiện nay lớn đến mức nó trở thành vấn đề. Ở các nước phát triển, mua nhà là anh mua chịu thì anh phải chứng minh là anh có nguồn tài chính. Cho nên các tổ chức dân sự khác nhau làm minh bạch vấn đề, chứ không phải Nhà nước đứng ra làm minh bạch vấn đề. Mọi việc chúng ta làm đều là Nhà nước đứng ra cả và Nhà nước trở thành đối tượng của xã hội. Cho nên, phải nói rằng đặt ra các mục tiêu vừa phải với năng lực của Nhà nước trong vấn đề kiểm soát xã hội là cả một vấn đề khoa học phải nghiên cứu, chứ không thể nói khát vọng chung chung được nữa.
Tôi vẫn muốn hỏi lại, ông cho rằng việc chống tham nhũng phải tinh tế hơn, cụ thể là Nhà nước phải làm gì, thưa ông?
Không phải chỉ tinh tế hơn, mà buộc phải khoa học hơn, buộc phải chặt chẽ hơn, và buộc phải phù hợp với năng lực của bản thân Nhà nước nữa. Bởi vì kiểm soát xã hội đòi hỏi phải có chi phí, phải có tiền. Bây giờ muốn kiểm soát giao thông chẳng hạn thì buộc phải có cảnh sát giao thông. Lương của anh em cảnh sát giao thông thì thấp nên một bộ phận trong số họ sẽ coi ra đường là cơ hội để thêm thu nhập và nó trở thành một vấn đề không chỉ của xã hội mà của Nhà nước nữa. Bây giờ chúng ta lại đặt mục tiêu kê khai tài sản thì cũng đòi hỏi bộ máy để thực thi, để giám sát và nó rất dễ trở thành gánh nặng của Nhà nước.
Nói tóm lại, ý của ông là không thể chống tham nhũng chỉ bằng việc kê khai tài sản, trong khi như tôi đã nói ở trên dư luận xã hội có vẻ đang rất kỳ vọng vào chủ trương này?
Chỉ với kê khai lẫn công khai chưa thể chống tham nhũng được. Chống tham nhũng sâu sắc hơn nhiều. Bây giờ lấy đâu lực lượng để kiểm soát việc kê khai tài sản và kiểm soát sự gia tăng tài sản. Xã hội sẽ như thế nào nếu có một đội quân rầm rộ suốt ngày đi điều tra tài sản. Cho nên, khi đưa ra các quyết sách theo tôi cần phải thận trọng. Đề ra quyết sách rồi không thực thi được sẽ làm giảm thêm một chút trong sự suy giảm lòng tin của xã hội.
Đừng vội vàng đưa ra những tuyên bố theo kiểu: Khi Nghị định 68 được thực thi sẽ tạo ra sự minh bạch trong phòng chống tham nhũng. Xưa nay chúng ta có một thói quen là chúng ta đưa ra những tuyên bố một cách tương đối dễ dãi, và thói quen ấy cần phải chấm dứt. Cần phải rất thận trọng trong việc đưa ra các tuyên bố.
Xin cảm ơn ông!