Trong entry trước
tôi có thắc mắc liệu là cái ngày Giỗ Tổ mùng 10 tháng 3 ở đâu ra. Cái
thắc mắc nho nhỏ của tôi là vì ngày 10 tháng 3 là ngày vua Khải Định
dùng công văn để quy định. Năm vua Khải Định ra cái công văn này là năm
1917. Đồng thời ca dao có câu “nhớ ngày Giỗ Tổ mùng 10 tháng 3″.
Trong cái entry này
bác 3 có nói rằng cái câu ca dao kia thực ra là rất mới, có tác giả
đàng hoàng, và đăng báo vào năm 193x. Tức là cái câu ca dao ấy thực ra
là để tuyên truyền cho cái ngày Giỗ Tổ mà vua Khải Định ấn định cho cả
nước. Còn ngày Giỗ Tổ thực, mà nhân dân địa phương khu vực Đền Hùng, vẫn
tiến hành cả ngàn (?) năm nay là ngày 11 tháng 3 âm lịch. (Vua cho cả
nước làm sớm lên 1 ngày, ngay tại đền Hùng, để sau đấy một ngày thì dân
địa phương có thời gian và địa điểm làm lễ của riêng mình). Qua đây cũng
thấy cái giải thích của Kim Định về ngày 10 tháng 3 (Tam Miêu – Bách
Việt) là bị đổ gãy hoàn toàn.
Thế nhưng, cuối cùng, thì cái ngày 11 tháng 3 âm lịch ấy phải ở đâu
ra chứ? Nó phải có ý nghĩa (cho dù là gán ghép) hoặc tốt hơn cả, là nó
phải có nguồn gốc thực sự từ đâu đó cội nguồn dân tộc. Thực ra tôi có
câu trả lời riêng của mình, nhưng từ từ đã, lát sẽ nói. Thế mới gọi là
câu view.
***
Đền Hùng, thực ra không cũ lắm, mới chỉ được xây dựng từ đời nhà Đinh. Điều này dễ hiểu vì trước đó là cả ngàn năm Bắc Thuộc.
Mã Viện sau khi cướp nước ta đã đốt sách, nung chảy hầu hết trống
đồng, tịch thu mang về Tàu hầu hết các tác phẩm và sản phẩm tinh hoa của
chúng ta, để rồi sau cả ngàn năm bắc thuộc, chúng ta mù mờ về tổ tiên
nhà mình. Nghiên cứu sử theo sách sử (chép) thì dựa nhiều vào sách Tàu
(ví dụ như Hậu Hán Thư) và sách ta, bắt đầu từ An Nam Quốc Vương kiêm
hoàng tộc nhà Trần đầu hàng theo giặc (hehehe). Ngoài ra chỉ còn huyền
sử với Lĩnh Nam Chích Quái là những câu chuyện nổi tiếng nhất.
***
Nếu chịu khó đọc tài liệu, hoặc đơn giản hơn là google, mọi người sẽ
thấy cả chục thuyết khác nhau về cội nguồn dân tộc. Từ mê tín dị đoan
Nho Việt, Hà Đồ, Kinh Thi, Kinh Dịch (Kim Định và những người theo phái
này), đến văn hóa Đông Sơn, Hòa Bình (các nhà lịch sử khảo cổ Hà Văn Tấn
đến Trần Quốc Vượng). Từ nhân chủng học (Bình Nguyên Lộc, cho rằng tổ
tiên chúng ta có chủng Malai) đến Lê Mạnh Thát nghiên cứu sử dựa vào văn
bản phật giáo và qua đó khước từ cả Triệu Đà lẫn An Dương Vương là vua
của người Việt. Sau đây là tóm tắt một chút về các thuyết để các bạn
thích món nào thì tự xào internet món đấy.
1. Trường phái Huyền Sử và sau này các môn đệ thêm cả mê tín vào (hay
gọi luôn là phái Kim Định cho dễ) thì cho rằng Viêm Việt (Bách Việt,
Cửu Lê, Lạc Việt…) ngày xưa làm chủ đất và văn minh Hoa Hạ. Sau này bị
Hán Tộc vốn là dân du mục, thiện chiến hơn, oánh cho tơi bời, chạy toé
khói về phương nam. Rồi lại bị đô hộ, chỉ có một nhóm nhỏ tồn tại đến
bây giờ chính là người Việt chúng ta đang lướt web hiện nay. Rồi từ đó
nhận hết Nho học, Kinh Thi, Kinh Dịch này nọ là có nguồn gốc từ dân ta
mà ra hết. Tuy thường xuyên đẽo chân cho vừa giày, ông Kim Định có một
điểm rất thuyết phục đó là họ của người xưa, bọn du mục thì lấy tên của
tướng, họ của dân nông nghiệp lấy theo đất. Ông Tạ Chí Đại Trường cũng
có nói Hùng là từ Hùng Điền mà ra.
2. Ngoại trừ những người làm sử dựa nhiều vào khoa học, ví dụ dựa vào
khảo cổ học như cụ Hà Văn Tấn, thì có hai người mà tôi rất khoái do họ
sử dụng nhiều phương pháp suy luận kiểu điều tra phá án Sherlock Holmes,
kết hợp khảo cổ và folklor học, lẫn nghiệp vụ hịên trường CSI: đó là
Trần Quốc Vượng, Tạ Chí Đại Trường. Ví dụ tiêu biểu là cả hai ông này
đều có những phát kiến về ảnh hưởng của tù binh Chăm ở đồng bằng Bắc Bộ.
Hay ông Tạ chí Đại Trường nói “có tội thì lội xuống sông” là dấu vết
văn hóa của tắm sông Hằng (do cách nào đó đã đến VN, ví dụ qua phật giáo
Nam tông) còn sót lại. Ông này còn giải thích về các họ Lí-Lê (Việt
Mường), Phan-Phạm (Chàm) và Trịnh (Thái).
3. Ông Bình Nguyên Lộc tuy nói dài và hay khiêu khích nhưng ông ấy sử
dụng hai công cụ cực kỳ đáng tin cậy là Nhân chủng học và Ngôn ngữ. Tuy
món nhân chủng học là món gây nhiều tranh cãi, nhưng ngôn ngữ học lại
có sự đồng thuận cao. Ông Bình Nguyên Lộc chứng minh được (tuy còn nhiều
dẫn chứng võ đoán) rằng tiếng Việt trước thời kỳ Mã Viện là tiếng đa
âm. Tàn tích còn sót lại là các từ ghép như Biển Cả. Ông này có giải
thích từ Văn Lang là từ chữ Nang Vlang (Cọ Sọc) mà ra (ngoài cái ông này
thì chưa thấy ai giải thích Văn Lang từ đâu mà ra cả). Ông này cho rằng
người Việt Cổ là hậu duệ của giống Proto-Australoid (Cổ-Phương Nam),
chủng thì là chủng Mã Lai. Vua Hùng là một bộ tộc thuộc chủng này, chiến
thắng hằng loạt bộ tộc khác (cũng cùng chủng ấy, có ngôn ngữ và văn hóa
giống nhau) thành lập nước Văn Lang, du nhập công nghệ đúc trống đồng
của người Mã Lai (cũng là cùng chủng). Người Mường là các chủng tiến hóa
hơn (đời sau) của giống này và đến Việt Nam sau cùng cho nên văn hóa và
ngôn ngữ của người Mường rất giống người Việt Cổ và có nét gần gũi văn
hóa với một loạt dân tộc ở Cao Nguyên.
Ông Bình Nguyên Lộc có chỗ khớp với ông Lê Mạnh Thát ở chỗ Bắc Tiến
(người Việt Cổ đi từ tít dưới phương nam lên Bắc, mang văn hóa và tôn
giáo của Ấn, Khmer…). Cũng khớp với khảo cổ Hòa Bình, Phùng Nguyên, Đông
Sơn, Sa Hùynh.
Để rồi sau này về Nam mở cõi, người Việt hiện đại lại gặp những bà con của tổ tiên mình.
***
Mặc dù Vua Hùng và Văn Lang xuất hiện lần đầu (trong văn bản) là cuốn
Việt Sử Lược do một hàng binh nhà Trần được tàu phong vương (ta gọi là
Việt gian hoặc phản quốc), cho nên phần xạo là nhiều (xạo là để lấy le
với địch, và xạo vì ông này là tay háo danh, thông minh, học giỏi). Tuy
nhiên dù xạo cũng cho thấy là vua Hùng không phải là người gốc gác bản
địa mà là dân di cư nên có thể làm được những việc mà dân ở đấy không
thể làm được (võ hoặc vật chẳng hạn) nên Việt Sử Lược mới nói là “ảo
thuật gia” và nhờ đó thống nhất được các bộ lạc và thành lập nước Văn
Lang.
Sau này Ngô Sĩ Liên dựa vào, rồi thêm cả huyền sử, để viết hẳn đọan
dài về Hùng Vương Âu Lạc An Dương Vương. An Dương Vương đoạn cuối có chỗ
sau khi giết Mỵ Châu đã cầm sừng Tê rẽ nước biển mà đi xuống như Moses
trong Cựu ước. Có lẽ vì điểm này mà Linh mục Kim Định quyết định dùng
Lĩnh Nam Chích Quái để làm Kinh Hùng.
Vua Hùng chắc chắn là có thật. Cho dù xuất phát điểm, hoặc sự thật,
vua Hùng chỉ là một ông tướng đứng đầu bộ lạc. Hùng Tướng hoặc Lạc
Tướng. Phân tích của Bình Nguyên Lộc là có vẻ thuyết phục nhất nếu chỉ
xét đoán về lập luận khoa học.
Vào cái link này và link
này sẽ thấy tiếng Việt cho thấy dù vay mượn từ vựng rất nhiều của tiếng
Tàu nhưng bản chất vẫn là Mon-Khmer và các nhánh ngôn ngữ gần nhất của
tiếng Việt là: Mường, Khmer, Bahnar, Pacoh, Katu (một loạt các dân tộc
anh em rất đỗi quen thuộc với chúng ta).
Và cũng như bác 3 ở đây nói, hay nếu ai chịu khó đọc Kho Tàng Truyện
Cổ Tích Việt Nam của Nguyễn Đổng Chi (có phần khảo dị rất hay) thì thấy
nhiều truyện cổ tích của ta tương đồng với truyện cổ các nước Đông Nam Á
hoặc Ấn Độ.
***
Cuối cùng, thế ngày Giỗ Tổ 11 tháng 3 Âm Lịch là từ đâu ra.
Rất có thể những người Việt Cổ, xuất phát là du mục săn bắn, khi định
cư ở lưu vực sông Hồng, sông Mã, đã chuyển qua trồng lúa và phát triển
công nghệ (hoặc thuổng ở đâu đó) đến trình độ cao: thủy lợi, thời tiết
và lịch mặt trăng.
Định cư ở đây đã lâu nhưng họ không quên cái Tết cổ truyền của mình.
Cái Tết đó đã đi vào âm lịch và trở thành ngày Giỗ Tổ. Đó là ngày 11
tháng 3 âm lịch, rất gần với Tết của người Khmer.
***
Lịch cổ của các nước Đông Nam Á là Phật Lịch Cổ. Đây là lịch âm dương
(năm thì theo mặt trời, tháng theo mặt trăng). Kỷ nguyên đầu tiên của
Phật lịch cổ bắt đầu (Tết năm Không) là ngày …10 tháng 3. Kỷ nguyên thứ
hai Tết bắt đầu với ngày đầu tiên của năm mới là … ngày 11 tháng 3 (năm
545 BC). Đây là khoảng thời gian mà người Mường cổ và người Chàm cổ bắt
đầu xuất hiện rõ rệt từ Trung tới Bắc Bộ. Cũng là thời kỳ vua Hùng thống
nhất các bộ lạc và thành lập nhà nước cổ Văn Lang. Và từ đó tục Têm
Trầu (rõ ràng là từ xứ Nam Dương) trở thành nghi thức ngoại giao cấp …
bộ tộc (hehehe) và sau này thành nghi thức tiếp khách của dân đồng bằng
sông Hồng (miếng trầu đầu câu chuyện). Tiễn quân ra trận (Bà Triệu) nhân
dân cũng “têm trầu cánh kiếm đưa chồng ra quân).
Các nước ĐNA đến đầu thế kỷ trước đều dùng lịch dựa vào Phật Lịch (cổ
hoặc hiện đại) trừ nước mình. Chắc là do sau thời Mã Viện, hoặc thậm
chí từ thời Triệu Đà, bị nó cưỡng bức. Bởi vậy nên Tết cổ truyền của
người Việt cổ phải lẩn trốn trở thành Giỗ Tổ như một bản năng giữ gìn
gốc tích dân tộc. Nó cũng giải quyết khúc mắc tại sao dân ta làm nông
nghiệp, dùng lịch âm (của tàu) mà trống đồng lại thể hiện thờ mặt trời.
Nó cũng cho thấy tại sao từ Nam Đảo, Tây Nguyên, Thanh Hóa, Hòa Bình,
Đồng Bằng Bắc Bộ và Lưỡng Quảng bên kia dãy núi lại có trống đồng hoặc
cồng chiêng. Mà càng lên phía bắc thì trống đồng càng đẹp (thế hệ sau đi
xa hơn và đạt trình độ công nghệ cao hơn thế hệ trước) cũng như càng
xuống hoặc vượt qua bên kia núi thì tài nguyên ưu đãi hơn, đúc được
trống to hơn).
Sau 1000 năm bắc thuộc thì chủng tộc chắc lai Hán nhiều, văn hóa ảnh
hưởng nhiều, đâm ra tâm lý vừa hâm mộ, vừa sợ, vừa ghét Tàu. Nhưng dân
Việt Thường Thị ở Hồng Lĩnh (nơi vua Hùng suýt nữa đặt kinh đô) thì ít
bị Hán hóa hơn. Từ đó nảy sinh ra một ông TBT coi Tàu khựa như rửa đít,
đó là ông LD (hehehe).
Tuesday, May 7, 2013
Subscribe to:
Post Comments (Atom)
No comments:
Post a Comment